NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

GÓP BÀN VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI SAU NĂM 2015 (phần 2)

( 17-01-2014 - 06:36 AM ) - Lượt xem: 2007

Sau khi hoàn thành, Chương trình Giáo dục Phổ thông mới sẽ được trình bày trong một ấn phẩm để xuất bản và phát hành cho giáo viên thực hiện. Giáo viên sẽ căn cứ vào chương trình của Bộ và mọi nguồn tư liệu hiện có (kể cả SGK hiện hành) để thiết kế bài học (course design) tức soạn giáo án giảng dạy cho học sinh bằng trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm của chính mình. Việc biên soạn SGK tương thích với chương trình mới sẽ dành cho bất cứ nhà chuyên môn nào có khả năng thực hiện, và khi ấy đương nhiên sẽ có nhiều bộ SGK cho một bộ môn. Quyền lựa chọn SGK cho việc dạy học hoàn toàn thuộc về giáo viên và học sinh.

3.  Xây dựng một chương trình  Trung học Phổ thông phân ban mới

 

Trong chương trình giáo dục phổ thông, chương trình học của bậc THPT bao giờ cũng có một vị trí đặc biệt, vì đó là sự kết tinh thành quả của cả quá trình giáo dục 12 năm, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới với nhiều con đường vào đời của học sinh. Vậy, chương trình THPT mới sẽ được xây dựng như thế nào để khắc phục những nhược điểm và bất cập của chương trình hiện hành, để đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của xã hội nói chung và của ngành giáo dục nói riêng?

 

3.1. Ba loại chương trình học hiện hành

Cho đến nay, trong hệ thống giáo dục phổ thông quốc tế đã và đang tồn tại 3 loại chương trình học chủ yếu cho bậc cuối trung học là chương trình đồng nhất, chương trình phân ban và chương trình tự chọn [xem 9, tr. 176-180].

Chương trình đồng nhất là loại chương trình học cổ điển nhất, theo đó tất cả học sinh cùng học các môn học với những chủ đề, dung lượng, thời lượng và tiến độ thực hiện như nhau để đạt mục tiêu đào tạo duy nhất. Đó là loại chương trình áp đặt, buộc mọi học sinh phải thực hiện mà không có bất cứ một sự lựa chọn nào. Chương trình đồng nhất chỉ bao gồm những kiến thức về văn hóa và khoa học cơ bản, ít quan tâm tới hướng nghiệp và không có dạy nghề. Loại chương trình học này hình thành ở nước ta từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất (năm 1950) với hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm ở vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp, được hoàn chỉnh từ cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai ( năm 1956) với hệ thống trường phổ thông 10 năm ở miền Bắc; và tiếp tục được áp dụng trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba  (từ 1980 trở về sau) với hệ thống giáo dục  phổ thông 12 năm áp dụng trên toàn quốc. Do sự bất cập của loại chương trình này, Bộ Giáo dục và Đào tạo phải đặt ra 4 khối thi đại học A,B,C,D như là một sự “phân ban cấp tốc” trước kỳ thi tuyển sinh đại học.

Chương trình học phân ban được hình thành từ cuối thế kỷ XIX ở các nước công nghiệp tiên tiến châu Âu. Đó là loại chương trình học có sự phân biệt về chủ đề, dung lượng, thời lượng và tiến độ môn học để đạt đến một số mục tiêu khác nhau. Chương trình học này cho phép học sinh lựa chọn những ban học theo sở trường và nguyện vọng nghề nghiệp của mình. Chương trình phân ban đã du nhập vào nước ta dưới thời Pháp thuộc với hai ban là Tú tài Triết và Tú tài Toán.

            Chương trình học tự chọn được áp dụng ở Mỹ từ đầu thế kỷ XX rồi phổ biến tới một số nước khác. Chương trình học này không phân ban, mà toàn bộ học vấn của các bộ môn được cấu tạo thành những modul, để học sinh tự chọn cho những tín chỉ (credit) thích hợp với sở trường và nguyện vọng của mình. Với những môn học và chủ đề hết sức đa dạng sẵn có, học sinh hoàn toàn chủ động trong việc thiết kế chương trình học cho chính mình, đáp ứng nguyện vọng học lên đại học hoặc ra đời hành nghề rồi sẽ lại học lên. Ở các nước tiên tiến, chương trình học đồng nhất chỉ được áp dụng cho những bậc học thấp (Tiểu học hay THCS), còn ở bậc học cao (THPT) không nước nào dùng chương trình đồng nhất nữa, mà áp dụng chương trình tự chọn (như ở Mỹ) hay chương trình phân ban (như ở Pháp).

 

 3.2. Lựa chọn loại chương trình học phân ban cho bậc THPT

            Chương trình học đồng nhất áp đặt cho mọi đối tượng được áp dụng ở nước ta cho đến cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3. Khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, loại chương trình học này nhanh chóng bộc lộ những nhược điểm, buộc Bộ phải chuyển sang thực hiện chương trình phân ban. Thất bại trong chương trình thí điểm với 3 ban A-B-C trong cuộc đổi mới giáo dục cuối thế kỷ XX, Bộ cho thực hiện chương trình mới chỉ với 2 ban A (Toán, Lý, Hóa, Sinh) và C (Văn, Sử, Địa, ngoại ngữ) trong cuộc Đổi mới Chương trình Giáo dục Phổ thông đầu thế kỷ XXI. Khi thấy quá ít học sinh theo học ban C, Bộ bèn lập thêm một “ban cơ bản” (tức là “ ban không phân ban”), biến chương trình phân ban thành “chương trình phân hóa”: đa số học sinh theo học “ban cơ bản”, một số học “nâng cao” về khoa học tự nhiên (tức ban A), còn rất ít học sinh muốn nâng cao về khoa học xã hội, nên ban C bị teo tóp dần. Với cách thức “phân hóa” như vậy, chương trình phân ban đã phá sản để trở lại với chương trình đồng nhất với tất cả những khuyết tật và sự bất cập của nó.

Vậy, chương trình học THPT mới sẽ phát triển theo hướng nào? Để thay thế chương trình đồng nhất chỉ có hai hướng phát triển: chương trình tự chọn hoặc chương trình phân ban.

            Chương trình học tự chọn là loại chương trình tiên tiến nhất với hiệu lực rất tốt. Nhưng việc thực hiện loại chương trình này yêu cầu một nguồn tài chính rất lớn với những điều kiện rất cao về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý điều hành. Cùng với một quỹ học vấn hết sức phong phú và đa dạng, nó đòi hỏi những cơ sở vật chất đồ sộ với những phòng học chuyên dùng và trung tâm học liệu. Bên cạnh đó là những quy trình và nguyên tắc quản lý mới lạ bao gồm một đội ngũ cố vấn học tập (councellor) tinh thông nghiệp vụ. Những điều kiện đó là quá cao xa rất khó đáp ứng trong hoàn cảnh hiện nay của Việt Nam.

Vì vậy, một chương trình học phân ban mới theo quy chuẩn quốc tế sẽ là định hướng thích hợp cho việc phát triển chương trình THPT ở nước ta (tức là phân ban ở các lớp 10-11-12). Phân ban là một loại chương trình học (chứ không phải là  “hình thức tổ chức dạy học” như một quan chức đã phát biểu), và là kiểu chương trình học tiên tiến được áp dụng rộng rãi  (chứ không phải là “lỗi thời” như một giáo sư nào đó đã nói).

 

             3.3. Phương hướng xây dựng chương trình THPT phân ban mới

     Các chương trình phân ban trong những cuộc đổi mới trước đây ở nước ta đều thất bại, vì chúng chỉ được phân ban theo khoa học cơ bản, tức là chỉ nhằm mục tiêu đào tạo các nhà khoa học cơ bản, ít chú trọng đến đến các loại hình tư duy và không quan tâm đến định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Vì thế, chương trình học mới cần phân ban theo loại hình tư duy, phân loại nghề nghiệp và dạy nghề cho học sinh, tức là sẽ có nhiều ban với chương trình khác nhau để học sinh lựa chọn cho việc học lên đại học hay ra đời hành nghề ngay sau khi tốt nghiệp THPT. Chương trình học phân ban theo mô thức quốc tế đòi hỏi một sự đổi mới tư duy mạnh mẽ: giáo dục phổ thông không chỉ có chức năng giảng dạy những tri thức khoa học và văn hóa cơ bản, mà còn có chức năng hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh.

        Có thể lấy chương trình Tú tài phân ban của Pháp làm một thí dụ. Chương trình đó bao gồm 3 khối chia thành 10 ban: 1- Khối Tú tài Phổ thông (baccalaureat general) được chia làm 3 ban: Văn chương, Kinh tế-Xã hội, Khoa học tự nhiên; 2- Khối Tú tài Công nghệ  (baccalaureat technologique) chia làm 5 ban: Khoa học và kỹ thuật phòng thí nghiệm, Khoa học và kỹ thuật Công nghiệp, Khoa học và kỹ thuật quản lý, Khoa học kỹ thuật về y tế-xã hội, Quản lý khách sạn; và Khối Tú tài Nghề (baccalaureat professienel) bao gồm 2 ban là Khu vực sản xuất và Khu vực dịch vụ [xem 10 và 11]. Theo đó, 3 ban thuộc khối Tú tài Phổ thông dành cho các học sinh có nguyện vọng học lên đại học để trở thành các nhà chuyên môn về khoa học cơ bản, 5 ban thuộc khối Tú tài Công nghệ dành cho các em muốn học lên các trường đại học về các lĩnh vực công nghệ, còn 2 ban của khối Tú tài nghề sẽ đào tạo nghề cho những học sinh muốn ra đời làm việc ngay (rồi sẽ vào đại học thuộc chuyên ngành thích hợp khi có điều kiện). Qua đó, có thể thấy các trình độ “Trung cấp chuyên nghiệp” và “Trung cấp nghề” theo quan niệm của Việt Nam hiện nay đã được đào tạo ngay trong chương trình Tú tài của Pháp.

Học tập chương trình phân ban Tú tài Pháp, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm chương trình học tự chọn của Mỹ, chính quyền miền Nam Việt Nam trước 1975 đã cho áp dụng một chương trình phân ban ở bậc Trung học Đệ nhị cấp (gồm các lớp 10, 11, 12) bao gồm 8 ban: ban A (khoa học thực nghiệm), ban B (khoa học Toán), ban C (văn chương sinh ngữ), ban D (văn chương cổ ngữ), ban E (kinh tế gia đình), ban F (doanh thương), ban G (công kỹ nghệ) và ban H (canh nông) [xem 6]. Khi ấy, Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức đã được thành lập để đào tạo các giáo viên giảng dạy các ban công kỹ nghệ, canh nông, doanh thương và kinh tế gia đình trong chương trình phân ban Trung học đệ nhị cấp (trong khi trường Đại học Sư phạm Sài Gòn đào tạo giáo viên các môn văn hóa và khoa học cơ bản).

Các chương trình học phân ban nói trên đáng được tham khảo để xây dựng chương trình học phân ban mới ở bậc THPT nước ta. Bên cạnh đó, chương trình học của các trường Trung cấp Nghề, nhất là chương trình đào tạo của trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức sẽ trở thành nguồn dữ liệu quý báu để xác định các ban trong Chương trình phân ban THPT mới.

 

  1. 4.      Đổi mới chương trình một bộ môn trong Chương trình giáo dục Phổ thông mới

Chương trình Giáo dục Phổ thông mới sau 2015 bao gồm chương trình học của tất cả các bộ môn được quy định trong đó. Vậy, chương trình mỗi bộ môn sẽ được phát triển như thế nào trong tổng thể Chương trình Giáo dục Phổ thông mới? Có thể lấy chương trình một bộ môn để minh họa cho vấn đề này: môn Lịch sử.

Chương trình bộ môn lịch sử hiện hành đã bộc lộ đầy đủ các nhược điểm cùng sự bất cập của nó: quá tải và cấu trúc bất hợp lý làm cho hiệu lực dạy học rất thấp. Vì vậy, chương trình học mới phải khắc phục được tất cả các nhược điểm đó để nâng cao hiệu lực và chất lượng dạy học bộ môn.

Để chương trình học mới của bộ môn lịch sử được xây dựng thành công, cần tuân thủ một số định hướng sau đây.

 

4.1. Xác định đúng vai trò môn lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông

Lịch sử luôn có vai trò hết sức quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thông của mọi quốc gia. Ở các nước tiên tiến, Lịch sử thường là 1 trong 3 môn được dành nhiều thời gian dạy học nhất (hai môn kia là Quốc văn và Toán). Đối với 3 lớp cuối trung học, chương trình của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay dành cho Lịch sử 3-4-3 giờ/tuần (tương đương môn Nga văn và chỉ kém môn Toán); các chương trình của Mỹ thường dành cho Lịch sử 3-3,5 tín chỉ (tương đương thời gian dành cho Anh văn cũng như cho Toán); chương trình tích hợp của Pháp dành cho Sử-Địa một thời lượng tương đương với Pháp văn hay Lý-Hóa. Trong khi đó, chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam xếp Lịch sử vào nhóm được dành quỹ thời gian thấp nhất (chỉ bằng 1/3 thời lượng dành cho Toán hoặc Ngữ văn) [xem 3 và 4]. Với quỹ thời gian như vậy, Lịch sử đã trở thành “môn phụ” trong chương trình giáo dục phổ thông nói chung và chương trình THPT nói riêng. Sự hạn hẹp về quỹ thời gian đã chứng tỏ sai lầm trong việc xác định vai trò của bộ môn Lịch sử trong hệ thống các môn học của chương trình giáo dục phổ thông. Chính sai lầm này là một nguồn gốc dẫn đến sự quá tải của chương trình bộ môn Lịch sử: nhồi nhét quá nhiều nội dung kiến thức trong những khung thời gian quá hẹp. Muốn sửa chữa sai lầm này, cần xác định lại vai trò của bộ môn Lịch sử cho đúng tầm quan trọng của nó, để dành cho nó một quỹ thời gian xứng đáng hơn so với thời lượng trong chương trình hiện hành.

 

 4.2. Xây dựng lại chương trình lịch sử trong khuôn khổ chương trình THPT phân ban

          Như ở phần trên đã chỉ rõ, chương trình giáo dục phổ thông mới phải được phân ban ở cấp THPT. Do đó, chương trình bộ môn Lịch sử phải được xây dựng trong khuôn khổ của chương trình THPT phân ban ấy. Trong một chương trình học phân ban, các môn học sẽ được phân loại thành những môn cơ bản (chung cho các ban), những môn cốt lõi (thường được gọi là những môn “trưởng”-major), những môn lựa chọn (thường được gọi là những môn “thứ”- minor). Sự phân biệt các loại môn học trong các ban được thể hiện bằng thời lượng giảng dạy, thời gian làm bài thi và hệ số tính điểm thi. Trong chương trình đó, Lịch sử luôn là môn cơ bản mà tất cả các ban đều phải học, nhưng có sự phân biệt về thời lượng giảng dạy đối với từng ban, trong đó các ban Văn chương và Kinh tế-xã hội (theo chương trình của Pháp, tương ứng với ban khoa học xã hội-nhân văn của Việt Nam) có thời lượng nhiều nhất, các ban khác có thời lượng ít hơn và có thể tương đương nhau. Dù cho có sự khác biệt về thời lượng giảng dạy như vậy, tất cả các ban đều phải thi tốt nghiệp môn Lịch sử với những đề thi khác nhau về dung lượng kiến thức, thời gian làm bài và hệ số tính điểm.

          Dạng “đồng tâm phát triển” qua hai vòng xoáy trôn ốc của chương trình bộ môn lịch sử hiện hành có nguồn gốc từ cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba. Khi ấy người ta dự định rằng đa số học sinh tốt nghiệp bậc Phổ thông Cơ sở (PTCS) 9 năm sẽ ra trường để vào đời, nên cần có một chương trình lịch sử hoàn chỉnh ở bậc PTCS để học sinh có đầy đủ kiến thức về lịch sử; còn thiểu số học lên Phổ thông Trung học (PTTH) sẽ được “nâng cao” thêm một vòng kiến thức hoàn chỉnh ấy. Thực tiễn ngày nay đã khác xa so với thời ấy: số học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học lên THPT ngày càng tăng để trở thành đa số, số em phải ra đời sau THCS ngày càng giảm để trở thành thiểu số. Do đó, xu hướng chung của ngành giáo dục là sẽ tiến tới phổ cập THPT. Thực tiễn đó cho phép xây dựng chương trình bộ môn lịch sử theo đường thẳng như ở các nước tiên tiến trên thế giới (phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam). Chương trình này đặt trọng tâm ở cấp THCS là lịch sử Cổ-Trung đại, còn trọng tâm ở cấp THPT là lịch sử Cận-Hiện đại.

Cũng xin lưu ý rằng, với học chế tín chỉ bao gồm các kiến thức modul hóa đang trở thành phổ biến trên thế giới, dạng chương trình “đồng tâm phát triển” (hay “đồng tâm xoáy trôn ốc”) chỉ còn thích hợp với việc giảng dạy ngoại ngữ và không còn được áp dụng cho bất cứ bộ môn nào khác, nhất là đối với môn Lịch sử.

 

4.3. Đổi mới đồng bộ 4 yếu tố cơ bản trong chương trình học bộ môn

          Để xây dựng được một chương trình học mới của bộ môn Lịch sử, thì phải đổi mới đồng bộ cả 4 yếu tố cơ bản (mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá) trong chương trình này so với chương trình hiện hành. Về mục tiêu, chương trình mới cần trình bày rõ và khu biệt lại các mục tiêu nhận thức, trình bày cụ thể hơn các mục tiêu về thái độ-tình cảm, đặc biệt chú trọng hơn nữa đến các mục tiêu về kỹ năng. Nội dung chương trình cần được lựa chọn lại để đáp ứng các mục tiêu đó, theo hướng cắt giảm bớt các chủ đề, giảm dung lượng và bề rộng của các kiến thức để tăng thêm chiều sâu và quá trình hình thành kiến thức, đồng thời để tạo điều kiện về thời gian cho việc áp dụng các phương pháp dạy học mới. Về phương pháp, cần tăng cường các phương pháp luyện tập-thực hành, đặc biệt chú trọng các phương pháp dạy học hiện đại theo cách tiếp cận gián tiếp và tiếp cận độc lập [xem 9, tr.51-65]. Về đánh giá, cần dứt khoát loại bỏ loại đề thi chỉ yêu cầu học sinh thuộc bài, hạn chế những đề chỉ yêu cầu gợi nhớ, đưa vào áp dụng những công cụ đánh giá-đo lường hiện đại chiếu theo các trình độ ứng xử của mục tiêu giáo dục [xem 9, tr.77-83].

 Khi cả 4 yếu tố này được thể hiện đồng bộ, thì chương trình học mới sẽ bảo đảm được hiệu lực trong việc dạy học, nghĩa là chương trình học mới đã được xây dựng thành công.

 

5.Thay lời kết luận

Đổi mới giáo dục một cách căn bản và toàn diện là sự nghiệp vĩ đại quyết định vận mệnh tương lai của dân tộc, trong đó Chương trình Giáo dục Phổ thông mới sau năm 2015 là công trình quan trọng nhất. Để công trình này được thưc hiện thành công, việc xây dựng chương trình phải được giao cho những chuyên gia về phát triển chương trình học (curriculum development) thực hiện theo các nguyên lý khoa học. Đồng thời, các cấp lãnh   đạo ngành giáo dục cần thể hiện quyết tâm đổi mới tư duy về giáo dục phổ thông, từ bỏ những di sản của cơ chế quan liêu bao cấp trong quản lý điều hành giáo dục, tách bạch chức năng của chương trình học với chức năng của SGK, từ bỏ quan điểm “ SGK là pháp lệnh” để tiếp thu quan điểm “chương trình học là pháp lệnh”, trao quyền chủ động sáng tạo cho giáo viên đứng lớp ở nhà trường trong khôn khổ những quy định của chương trình học.

Sau khi hoàn thành, Chương trình Giáo dục Phổ thông mới sẽ được trình bày trong một ấn phẩm để xuất bản và phát hành cho giáo viên thực hiện. Giáo viên sẽ căn cứ vào chương trình của Bộ và mọi nguồn tư liệu hiện có (kể cả SGK hiện hành) để thiết kế bài học (course design) tức soạn giáo án giảng dạy cho học sinh bằng trình độ chuyên môn và khả năng sư phạm của chính mình. Việc biên soạn SGK tương thích với chương trình mới sẽ dành cho bất cứ nhà chuyên môn nào có khả năng thực hiện, và khi ấy đương nhiên sẽ có nhiều bộ SGK cho một bộ môn. Quyền lựa chọn SGK cho việc dạy học hoàn toàn thuộc về giáo viên và học sinh.

Khi ấy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các Sở trực thuộc sẽ quản lý giáo dục bằng luật pháp và chương trình học; mọi vấn đề thuộc về chuyên môn học thuật và thành quả giáo dục thuộc quyền các nhà giáo và nhà trường ở cơ sở. Với cơ chế quản lý dân chủ-khoa học được xác lập, một nền giáo dục trung thưc với vai trò chủ động sáng tạo của giáo viên sẽ được đảm bảo.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thôngNhững vấn đề chung (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
  2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thôngchương trình Tiểu học (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
  3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thôngChương trình Trung học Cơ sở (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
  4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thôngChương trình Trung học Phổ thông (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
  5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục Phổ thông môn Lịch sử (ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 05/05/2006), NXB Giáo dục, Hà Nội.
  6. Bộ Giáo dục (1972), Chương trình Trung học Tổng hợp Đệ nhị cấp, Sài Gòn.
  7. Jacques Delors (1996), Raport to UNESCO of the International Commision on Education for the twenty-first Century (Introduction), UNESCO, New York.
  8. John Dewey (1916), Dân chủ và Giáo dục, Phan Anh Tuấn dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008.
  9. Lê Vinh Quốc (2011), Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại, NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.
  10. 10.  Ministère de I’education nationale de la jeunesse et des sports (1990), Baccalauréat de l’enseignement du second degree (series A, B, C, D), Centre national de documentation pédagogique, Paris.

11. http://www.education.gouv.fr/cid52071/baccalaureat-2010.html# Les chiffres cles. Baccalaureat 2010, Dossier de presse-Luc Chatel 11/06/2010.

TIẾN SĨ GIÁO DỤC LÊ VINH QUỐC

Các Bài viết khác