GÓP BÀN VỀ GIÁO SƯ Ở NƯỚC TA
( 13-12-2013 - 06:21 AM ) - Lượt xem: 1455
GS Hoàng Tụy đã chỉ ra rằng: “Các tiêu chuẩn định lượng bằng cách tính điểm như của ta có vẻ chặt chẽ khoa học, song kỳ thật là máy móc, hình thức và phi khoa học”. Ông khẳng định “quan niệm học hàm kiểu phong kiến” với “các tiêu chuẩn định lượng” như vậy đã dẫn đến “hậu quả là ta có quá nhiều GS, PGS hữu danh vô thực, cách xa chuẩn mực quốc tế, đồng thời cũng mất đi không ít những nhà khoa học trẻ tài năng mà lẽ ra, nếu được công nhận vị trí xứng đáng, đã có thể đóng góp nhiều cho đất nước”.
Giáo sư đại học là nhân vật quan trọng nhất trong giới trí thức của mỗi quốc gia. Vì vậy, làm cách nào để có những giáo sư thực sự xứng đáng với cương vị đó là một vấn đề vô cùng hệ trọng.
1. Suốt một thời gian dài theo cơ chế quan liêu-bao cấp, những người làm công tác giảng dạy trong các trường đại học ở miền Bắc nước ta được gọi chung là “cán bộ giảng dạy”, bất kể là họ có bằng phó tiến sĩ (dịch từ tiếng Nga: kandidat nauk) hay không. Sau ngày đất nước thống nhất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 162/CP ngày 11-9-1976 về việc phong hàm Giáo sư (GS), Phó Giáo sư (PGS) cho 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu được tôn vinh. Thực hiện quyết định này, những GS và PGS đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất đã xuất hiện. Từ đó, nhiều đợt phong tặng học hàm GS và PGS khác được tiến hành khoảng 4 năm một lần.
Ngày 4-3-1995, Chính phủ cho thành lập Hội đồng Học hàm Nhà nước bằng Nghị định số 21/CP để “ Xét duyệt, công nhận và cấp giấy chứng nhận học hàm GS, PGS cho các cán bộ khoa học và giáo dục của tất cả các ngành nghề chuyên môn.”
Các văn kiện nêu trên cho thấy rõ rằng GS và PGS là các phẩm hàm để phong thưởng tôn vinh những cán bộ khoa học và giáo dục có thành tích, chứ không phải là những chức vụ khoa học để các nhà chuyên môn đảm trách; đồng thời đó là những GS và PGS chung cho “tất cả các ngành nghề chuyên môn” trong cả nước do chính phủ “phong”, chứ không phải là GS và PGS của riêng các trường đại học. Do quan niệm sai lầm này, bên cạnh những nhà khoa học thực sự xứng đáng với học hàm do nhà nước phong tặng, nhiều người được “phong hàm” GS, PGS chỉ là để đánh bóng tên tuổi và/ hoặc để tiến thân trên con đường danh vọng, mà không phát huy được tác dụng nào trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học, một số không ít trong đó chưa hề giảng dạy đại học và không có các công trình nghiên cứu khoa học thực sự. Quan niệm về “phẩm hàm tôn vinh” đã dẫn đến cách tôn xưng độc đáo chỉ có ởViệt Nam: “cặp díp” học hàm với học vị (GS-TS, PGS-TS); thậm chí ghép thêm vào đó cả những danh hiệu, thí dụ “PGS,TSKH, NGƯT Nguyễn Văn X”.
2. Nhận thấy những sai lầm trong các quan niệm trên, chính phủ cho ban hành Nghị định số 20/2001/NĐ-CP (năm 2001) “Quy định tiêu chuẩn, thủ tục bổ nhiệm và miễn nhiệm chức danh GS, PGS”, trong đó “Hội đồng Chức danh Nhà nước” được thành lập thay cho Hội đồng “Học hàm” trước kia. Nghị định này dẫn tới 3 sự thay đổi so với trước: “học hàm” GS, PGS trở thành “chức danh”; chức danh này chỉ dành cho những nhà giáo giảng dạy ở đại học; và việc “phong học hàm” được thay bằng một quy trình hai công đoạn là “xét công nhận” và “bổ nhiệm vào ngạch”. Nhìn chung, những sự thay đổi này là đúng hướng, nhưng vẫn mang nặng tính hình thức mà chưa dẫn đến một sự biến chuyển về thực chất. Trong khi các tiêu chuẩn và cách thức xét duyệt để công nhận chức danh vẫn giữ nguyên như cũ với những sự bất hợp lý của chúng, thì việc chuyển “học hàm” thành “chức danh” chỉ thuần túy là sự thay đổi cái vỏ ngôn từ, còn thực chất chứa đựng trong đó vẫn như cũ. Trong hai công đoạn của quy trình xét duyệt, thì công đoạn “xét công nhận” có vai trò quyết định và vẫn được tiến hành như việc xét phong học hàm trước kia; còn công đoạn “bổ nhiệm vào ngạch” chỉ là các thủ tục hành chính mà đương sự sẽ có nhiều cách để hoàn tất. Như vậy, nghị định này chưa mang lại một sự đổi mới thật sự để nâng cao chất lượng của các GS và PGS nước ta. GS Hoàng Tụy đã chỉ ra rằng: “Các tiêu chuẩn định lượng bằng cách tính điểm như của ta có vẻ chặt chẽ khoa học, song kỳ thật là máy móc, hình thức và phi khoa học”. Ông khẳng định “quan niệm học hàm kiểu phong kiến” với “các tiêu chuẩn định lượng” như vậy đã dẫn đến “hậu quả là ta có quá nhiều GS, PGS hữu danh vô thực, cách xa chuẩn mực quốc tế, đồng thời cũng mất đi không ít những nhà khoa học trẻ tài năng mà lẽ ra, nếu được công nhận vị trí xứng đáng, đã có thể đóng góp nhiều cho đất nước”.
MỘT LỄ TRAO HỌC HÀM GIÁO SƯ
3. Để tiếp tục đổi mới quy trình công nhận và bổ nhiệm chức danh GS, PGS của nước ta, chính phủ đã ban hành Quyết định 174/2008/QĐ-TTg (năm 2008) và Quyết định 20/2012/QĐ-TTg (năm 2012), được Bộ Giáo dục và Đào tạo cụ thể hóa bằng các Thông tư 16/2009/TT-BGDĐT (năm 2009) và Thông tư 20/2012/TT-BGDĐT (ngày 11-9-2012). Theo đó, công đoạn “xét công nhận” vẫn thuộc quyền Hội đồng Chức danh Nhà nước (có thêm sự trợ giúp của Hội đồng Chức danh Cơ sở) với các tiêu chuẩn được mở rộng linh hoạt hơn nhưng vẫn theo nguyên tắc cũ; còn công đoạn “ bổ nhiệm vào ngạch” được nới rộng quyền hạn hơn cho các trường đại học.
Muốn cho việc đổi mới quy trình công nhận và bổ nhiệm chức danh GS và PGS đạt hiệu quả tốt, chúng ta cần quan niệm đúng chức trách của từng vị trí trong hệ thống chức danh của nhà trường đại học. Ở các nước tiên tiến (thí dụ như Hoa Kỳ), các chức danh ở đại học không chỉ có GS và PGS, mà là cả một hệ thống gồm nhiều vị trí từ cao xuống thấp: GS thực thụ (Full Professor, thường viết tắt là Professor-tương tự thuật ngữ GS ở Việt Nam), GS cộng sự (Associated Professor-tương tự thuật ngữ PGS của Việt Nam), GS phụ tá (Assistant Professor), Giảng viên trưởng (Senior Lecturer hay Full-time Lecturer), Giảng viên (Lecturer) và Trợ giảng (Associate Lecture hay Part-time Lecture). Trong hệ thống này, mỗi cấp bậc là một chức vụ khoa học (hoặc chức vụ chuyên môn) có chức trách rõ ràng, không lẫn lộn với các cấp bậc khác. GS là người chịu trách nhiệm cao nhất về khoa học của một bộ môn với những giáo trình trọng yếu được giảng dạy và các đề tài nghiên cứu của bộ môn khoa học đó. Còn Giảng viên các cấp là những người giảng dạy bộ môn dựa trên các giáo trình do các GS biên soạn. Trong khi đó, Việt Nam cũng có Giảng viên, Giảng viên chính và Giảng viên cao cấp, nhưng các cấp giảng viên này không được coi là chức danh, mà chỉ là “ngạch công chức” để xếp lương. Ngược lại, nhiệm vụ của các GS và PGS nước ta lại không có một chức trách khoa học rõ ràng nào để phân biệt họ với giảng viên các cấp. Vì thế, nhà trường đại học Việt Nam coi GS và PGS cũng chỉ là một loại giảng viên như những cán bộ giảng dạy khác. Không phải ngẫu nhiên mà các phương tiện truyền thông nước ta thường giới thiệu các vị có chức danh theo mẫu sau: “GS-TS Trần Văn Y- giảng viên trường đại học Z”. (Ở nước ngoài, người ta phải viết: “TS John Smith- Giáo sư Đại học X”). Để uốn nắn sai lầm này, Luật Giáo dục Đại học (có hiệu lực từ 1-1-2013) đã vạch rõ 5 loại chức danh đại học là trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, PGS và GS. Đây là một sự uốn nắn đúng hướng và cần thiết, nhưng tiếc rằng khái niệm và chức trách của những chức danh đó chưa được diễn đạt và quy định chính xác.
Sự mù mờ về chức trách dẫn tới sự bất cập về tiêu chuẩn tuyển chọn. Thay vì dựa trên công trình khoa học có giá trị cao để bổ nhiệm đương sự vào chức vụ GS hay PGS của bộ môn cần thiết, người ta lại căn cứ vào thâm niên công tác, số giờ giảng dạy, số lượng các bài báo và số lượng công trình (không rõ chất lượng khoa học đến đâu) và nhiều tiêu chuẩn hành chính khác để công nhận chức danh GS và PGS. Do đó, các chức danh này chủ yếu vẫn là để tôn vinh và hưởng lợi mà không gắn chặt với sứ mệnh khoa học của một bộ môn trong một trường đại học cụ thể nào.
4. Theo tiêu chuẩn quốc tế, GS phải là những nhà khoa học hàng đầu của các bộ môn trong từng lĩnh vực. Vì thế, số lượng GS trong các trường đại học ở một nước ít hay nhiều là do nền tảng phát triển khoa học của nước đó quyết định. Bởi vậy, chỉ ở những cường quốc công nghiệp phát triển (đồng nghĩa với khoa học phát triển) mới có những đại học đầy đủ GS các cấp cho tất cả các ngành đào tạo và nghiên cứu. Ở các nước đang phát triển (với trình độ khoa học chưa cao) như Thái Lan, Malaysia hay Philippines, sự thiếu vắng hoặc hiếm hoi các GS đầu ngành trong các trường đại học là thực trạng bình thường. Đội ngũ giáo chức đại học ở các nước này chủ yếu vẫn là các giảng viên (với đa số có bằng TS của Mỹ hay các nước châu Âu). Dựa trên nền tảng vững chắc của khoa học hiện đại (với nhiều giáo trình được nhập khẩu từ phương Tây), họ nghiên cứu khoa học và thiết kế những bài giảng có chất lượng, khi cần thì thỉnh giảng các GS nước ngoài.
Nước ta mới thoát khỏi số phận nước nghèo để bước sang mốc đầu tiên trong danh sách các nước đang phát triển trung bình, với nền tảng khoa học còn thấp hơn nhiều nước láng giềng ở Đông Nam Á. Vì vậy, mọi dự định về việc tăng nhanh số GS và PGS trong các trường đại học Việt Nam chỉ là những ý tưởng chủ quan xa rời thực tế. (Nếu dùng những biện pháp ngoài khoa học để nâng cao số lượng GS và PGS, thì các cơ quan kiểm định quốc tế cũng dễ dàng phát hiện được chất lượng thực sự của những người được bổ nhiệm đó). Hành động thiết thực là phải đổi mới để nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ giảng viên, từ đó cải thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu ở nhà trường, thì mới có được các PGS và GS đủ chuẩn mực.
Nói chung, những sự đổi mới trong quy trình xét công nhận và bổ nhiệm GS và PGS hiện nay đang đi đúng hướng, nhưng vẫn còn bất cập về thủ tục và chưa có tác dụng thiết thực trong việc nâng cao chất lượng các chức danh đại học nước ta. Việc tách rời “công nhận” với “bổ nhiệm” thành hai công đoạn thực hiện ở hai nơi là sự bất hợp lý gây nhiều phiền toái không đáng có. Việc trao toàn quyền bổ nhiệm cho cấp cơ sở sẽ có thể phát sinh những sự tiêu cực, nhưng xin lưu ý rằng ngay tại các nước tiên tiến thì bổ nhiệm một chức vụ GS cũng không chỉ là quyền của cá nhân hiệu trưởng, mà phải qua sự xem xét của Hội đồng Khoa học nhà trường. Khi chức danh GS gắn chặt với trường đại học bổ nhiệm chức danh đó, thì các vị hiệu trưởng sẽ phải lo bảo vệ thương hiệu sản phẩm của trường mình mà tránh bổ nhiệm những người không xứng đáng. Trong tương lai, xã hội nước ta sẽ phải làm quen với nhiều trình độ khác nhau giữa các GS (và PGS) do các trường đại học khác nhau bổ nhiệm.
Lê Vinh Quốc
( Tiến sĩ Giáo dục)