ĐẾ CỦA TƯỢNG
( 03-10-2016 - 02:39 PM ) - Lượt xem: 1387
Được sự đồng ý của tác giả (nhà văn Dạ Ngân), BBT đăng lại phục vụ bạn đọc của CLB
Chưa đầy một thế kỷ, đất nước rên xiết bởi ba cuộc chiến tranh, Hà Nội lưu giữ trong nó tầng tầng ký ức bi thương. Sẽ có người nói, thủ đô oai hùng chứ, ít ra cũng bi tráng chứ. Độ lùi thời gian cho phép người sau có chữ của thế hệ mình, bi thương, vì vậy những tượng đài luôn cất ở phần đế của nó những số phận câm.
“Miền Bắc thiên đường của các con tôi”, “Hà Nội niềm tin và hy vọng”, thơ ca trẩy hội ấy phủ dụ tôi suốt những năm tháng chiến tranh với Mỹ và sau đó. Thú thật, không được truyền cảm hứng ấy, chắc tôi đã không đi trót con đường mà ba tôi thời Việt Minh đã chọn.
Và rồi tôi đặt chân lần đầu lên Hà Nội một cách muộn màng. Đói rách đập vào mắt và đập vào tai những câu chuyện vỉa hè tung tóe của những trí thức trung niên sung sức ngôn từ. “Còn những người của bộ tộc tà-ru nữa em ơi”, Nguyễn Quang Thân buồn bã tự trào (hồi ấy “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn mới ở dạng bản thảo “nước một”). Tôi choáng váng. Thì ra, rất nhiều tên tuổi trong giới tinh hoa thủ đô là “con dân” của bộ tộc tà-ru (tù ra). Thế là tôi được chồng chở đi ngang về tắt với những con người vừa là chứng nhân vừa là nạn nhân của lịch sử ấy, đơn giản vì những người đó là đáy của Hà Nội, họ chìm sâu vì sức nặng của chính họ. Chung quanh chúng tôi, quá nhiều những số phận ấy, tôi nói quá nhiều vì mỗi một con người bị đày đọa đều kéo theo vợ con, cha mẹ, họ hàng, bè bạn…của họ.
Ngõ hẹp của Hà Nội những năm đầu của thập kỷ 90 còn giống nhau ở mùi than tổ ong từ những cái bếp né bên lối đi. Vợ chồng tôi còn lên lịch ủ sao cho hai ngày là năm viên than chứ không phải tốn sáu viên, chi li là thuộc tính, căn tính chứ không chỉ là phẩm chất. Nghèo và cảnh giác là hai thứ tôi ghi nhận từ những phận người Hà Nội mà tôi cố gắng thâm nhập. Bếp lò không ai ăn cắp nhưng cái đặt trên đó phải coi chừng, vì vậy mới có cảnh nồi hay ấm thường có dây lòi tói khóa lại, Nguyễn Quang Thân bảo chúng mà còn bị xiềng xích huống chi con người, xin em nhớ cho!
Mùi than tổ ong ngõ Lương Sử C có gì khác so với những ngõ khác, tôi nhớ lại. Đã hơn 20 năm kể từ lần đầu tôi được chồng đèo bằng chiếc Chaly đến nhà học giả Kiến Giang. Buổi tối mùa thu se buồn, vì vậy mà mùi than tổ ong đặc trưng hơn, hay là vì tôi tò mò quá nên ấn tượng đậm hơn, khó phai mờ? Lại nghe chồng tự trào “Phải có bộ nhớ đặc biệt để nhớ đường vì bọn anh toàn chơi với những tay trong ngõ nghèo mà còn hay sinh sự!” Tôi đế thêm: “Sao không nói ngược lại, vì hay phản biện nên mới bị đày vô hẻm, ba phải thì đã là quan chức nhà mặt tiền!”.
Bấy giờ Kiến Giang không còn đi thái nhân trần độ nhật nữa mà phong lưu bằng ngòi bút rồi, dư luận vỉa hè Hà Nội kháo nhau. Trong ngõ Lương Sử C sặc mùi than tổ ong phổ cập (dù vợ ông chưa bao giờ “dám” dùng than bởi bệnh phế quản mãn tính), căn hộ cấp bốn khoảng bốn chục mét vuông trong khu tập thể khiêm nhường đã là ngôi nhà ba tầng khang trang, như có phép màu cổ tích. Chấm dứt thời người Hà Nội kín đáo thó từng vốc cát từng viên gạch ở những công trình công cộng đem về để dành, hay nhận từng vài ký xi-măng lẻ qua đường bưu điện từ người thân ở đâu đó gửi cho để vá víu chỗ nọ chỗ kia. Hà Nội bung ra một hình ảnh mạnh ai nấy marathon trong ý thức “tự cứu trước khi trời cứu”. Nguyễn Quang Thân lại rỉ tai “Viết như thở, viết như thiên mệnh nhưng có thể sau này những cuốn Kiến Giang nhờ người khác đứng tên sẽ không trở về được với chính chủ. Đời là thế. Thôi, có nhuận bút bù đắp cho vợ con đã!”
Nữ chủ nhân, bà Nguyễn Thị Xuân Lan (bằng tuổi với chồng), khi đó đã ngoại lục tuần. Người nhỏ nhất trong số sáu người con của ông bà cũng đã xong đại học. Sáu người con, hùng hậu khi ông bà về già nhưng khi Kiến Giang “gặp nạn” (từ riêng của gia đình chỉ chín năm ông bị tù và quản chế xa nhà) thì gánh nặng ấy là bao nhiêu cho người vợ và chính những đứa con? Thời gian khỏa lấp, mừng ngày đất nước thống nhất chúng ta toàn thấy pháo hoa chứ đâu thấy lại những xác người ở cửa ngõ Sài Gòn. Như ta có thể thấy gian Hỏa Lò từ bên ngoài, “ở đây đã từng giam…” nhưng không sao thấy được dáng tù của những con người ấy. Và cũng như vậy, tôi thấy bà Xuân Lan một thời xuân sắc nhưng làm sao thấy được nước mắt của chín năm “trực diện” đến hậu tà-ru, khi ấy “khóc phải kín, khóc phải giỏi” để còn cho các con, họ hàng, lối phố người ta nhìn vào. Khóc với các con là khóc xả nhưng không quên cứng cỏi, khóc với bạn bè là khóc nhịn để người ta đừng thương cảm quá và khóc cho riêng mình thì sao? Tôi hình dung, cốt cách con nhà học thức như bà (ba của bà là Y sĩ Đông dương) thì khóc đầm gối mà mắt không sưng để sáng ra các con không yếu đuối buông xuôi!
Thoăn thoắt bước, thoăn thoắt nói và làm: “Anh của hai vị đang ở trên tầng ba, lên đi lên đi”. Típ phụ nữ như bà miền Bắc định nghĩa là “mỏng mày hay hạt” và miền Nam của tôi gọi đùa là “mi-nhon cho tới chết”. Bên trong ngôi nhà ông Kiến Giang marathon làm nên để bù đắp cho vợ con khi ấy vẫn là những thứ mộc mạc sơ sài không chỉ dấu ấn của thời nửa chiến tranh nửa hòa bình và bao cấp. Giá sách nổi tiếng của ông giờ đã hao gầy nhiều, những thanh gỗ thùng có từ khi ông du học ở Liên Xô về sau khi ông gặp nạn đã được vợ con kết sạp để nằm trong những ngày đông, và những quyển sách quý đã “một đi không trở lại” hôm ông bị dẫn đi. “Còn người là còn của”, câu ấy chí lý với gia đình ông - bộ óc của ông, cốt cách của ông là gia sản cho vợ con chứ không phải nhà cao và đồ quý.
Cái bếp ga Ý là món quà ông dành cho bà Lan trong ngôi nhà mới dù như đã mô tả, mùi than tổ ong lưu cửu của dân phố vẫn ập vào hành hạ bệnh phế quản của bà mỗi khi trở trời trái gió. Bà tặc lưỡi, đã từng có chín năm địa ngục bởi ghẻ lạnh, khinh khi, đàm tiếu… thì mọi thứ tệ hại khác chẳng nhằm nhò gì. Chúng tôi cùng chuẩn bị cho bữa cơm khách đạm bạc như hai chị em xa cách lâu ngày. “Anh của cô” là cụm từ chỉ Kiến Giang trong câu chuyện với tôi, cách nói đặc biệt của riêng bà nghe thật gần gũi và ấm cả người nghe. “Anh của cô hay khách, nghe báo các vị đến, chị chạy đi chợ chiều từ hôm qua cho nó rẻ!”
Các con của bà nhớ lại, năm 1963, họ đã loáng thoáng nghe bà can ngăn, tranh luận và cả khóc lóc với những điều ông đang nung nấu dù động cơ của ông không phải bàn cãi. Bà có dự cảm của người sinh ra để gắn bó với ông. Quả nhiên mọi thứ diễn ra lúc con út mới có 5 tuổi, mười giờ đêm, nhân viên công quyền đầy nhà, người bị đẩy đi rối bời, người ở lại một nách 6 con như rơi từ miệng hố trần gian xuống tầng đầu địa ngục. Bắt đầu chống chọi không chỉ đói và rách theo nghĩa đen vì một bầy con, chống chọi ấy thường tình, tôi cũng là con của tù nhân chính trị thời Ngô Đình Diệm tôi biết chứ. Sự chống chọi của bà Lan theo chúng tôi là phi thường vì có người nhà “bị tù ta”, ba chữ ấy đủ diễn tả cái thập ác của bà giữa xã hội thừa thãi sự trừng phạt.
Bây giờ trong tâm tưởng của bà và các con là những cái mốc như thể những nhát đẽo của nhà điêu khắc. Bốn đứa con lớn Thuần, Thục, Tuấn, Thanh đang ở nơi sơ tán, hai con nhỏ Tú, Thảo ở Hà Nội với ba mạ và chứng kiến thời điểm khởi đầu đoạn đời ba “bị tù ta” với mấy từ mơ hồ cho đến tận hôm nay: “xét lại”! Mẹ gởi hai con nhỏ cho mệ (bà nội), lên chỗ sơ tán khóc với bốn đứa con mà không biết giải thích thế nào. Đành dối con và dối những người nông dân tốt bụng đang đùm bọc con mình “ba chúng đi B”. Ba đi B phải tự hào sao mẹ khóc lén suốt thế? Cây kim trong bọc lâu ngày và những người trong khu tập thể cơ quan của ba Kiến Giang cũng là kim nhưng không bị bọc, họ nhạy bén châm chích, khinh miệt để tỏ rõ lập trường, “chúng nó” phải chịu rướm máu mới đáng! Bắt đầu chuỗi ngàn ngàn ngày bị ném đá thẳng tay và cả “ném đá giấu tay”. Ai đó trong giới chính trị chóp bu còn mỉa mai “Đi tù cũng là góp phần chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước!” Thôi thì chiến tranh, chồng biền biệt như mọi người đàn ông thời đó biền biệt, tết nào trong tay nải cũng là sáu lá thư của sáu đứa con viết riêng cho ba nhưng ông không hồi âm vì ông đâu có giấy bút, cũng là cách người ta trừng phạt những người hay viết lách như ông.
Nhà báo Kiến Giang và nhà báo Lê Phú Khải
Mạ và sáu con nhao ra làm mọi việc của người bần cùng để tồn tại trong ghẻ lạnh người đời. Bà như một diễn viên trên cái sân khấu không có màn nhung, khán giả là sáu đứa con nhìn vào từng hành vi, cử động, vẻ mặt dáng hình của mẹ để bám víu, động viên (đôi khi tán thưởng nữa). Bà tin và yêu chồng hơn cả những ngày trăng mật xưa và tin các con có bộ gène tốt, có nền tảng giáo dục cao và tin ở hoàn cảnh tôi luyện con người. Thảy đều giống cha, khả năng xã hội học rất đậm nhưng để tránh số phận phiền phức, bà định vị chúng đi khoa học tự nhiên. Nhưng rồi thiên hướng đã tụ chúng lại, dịch giả, kiến trúc sư, nhà sử học và nghề giáo…Có câu “nhìn con biết mẹ”, quả nhiên, thời gian đã không phụ công người lao khổ, dù không ai được phép xuất ngoại du học vì “nhân thân xấu” nhưng trong mắt tôi, họ thực sự là những con người tử tế đúng như ông bà Kiến Giang mong ước. Nguyễn Quang Thân lại AQ: “Khỏi lo chúng đi xa, mất gốc!”
Gẫm ra ở cái xứ ngược đời này, vài ba chục năm thì thang giá trị thay đổi một lần. Nhà cải cách Kim Ngọc từng bị ném đá bỗng một ngày sáng rỡ gương mặt hiền nhân. Những người từng mang án Nhân văn giai phẩm bỗng được phong tặng. Và với riêng chúng tôi, Kiến Giang - nhà xã hội học số 1 của VN – cùng với Xuân Lan là cặp đôi vàng của những người nhiều long đong bởi kích cỡ của họ quá lớn.
Khi tôi viết bài này, sau ba năm Kiến Giang từ giã cõi phi lý xô bồ, vợ ông, bà Xuân Lan yếu đi nhanh và tôi không được gặp. Nhưng may mắn cho tôi, các con của ông bà đang có việc vui ở Sài Gòn và thú thực, nhìn họ quây quần với nhau, tôi biết đó là tất cả những gì ông và bà để lại cho đời. Đó là tình yêu tôn kính bà dành cho ông và điều đó thấm vào các con để rồi, giữa họ là hương vị của những người trân quý nhau, trân quý sự nổi tiếng của cha mình và trân quý cả những ngày u buồn cũ.
Điều gì làm nên ta, là số phận của chính ta, sẽ không là ta nếu cay nghiệt khước từ hay nguyền rủa nó./.
DẠ NGÂN
Báo Người Đô Thị số tháng 10. Khi in BBT xử lý một số chữ “nhạy cảm”. Bài này nguyên gốc,