NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

NHÀ VĂN NGUYỄN KHOA ĐĂNG NIỀM RIÊNG CÀI HOA VÀO QUÁ KHỨ

( 19-11-2023 - 02:31 PM ) - Lượt xem: 523

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng viết được nhiều thể loại khác nhau. Với độc giả thiếu nhi, ông có tập thơ “Đội nón cho cây” và truyện dài “Chim mặt người”. Với độc giả bình dân, ông có hai tập truyện trắc nghiệm tâm lý “Trăm nỗi éo le” và “Cảnh ngứa mắt chốn đông người”... Đặc biệt, cố hương Thái Bình mà ông từng có những lời thơ trong trẻo “Em đi giữa biển vàng, nghe mênh mang trên đồng lúa hát. Hương lúa chín thoang thoảng bay, làm lung lay hàng cột điện, làm xao động cả hàng cây” lại có những mệnh kiếp trầm luân theo lịch sử luôn ám ảnh ông khôn nguôi. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã dành 10 năm để nghiền ngẫm và viết hai cuốn tiểu thuyết về đề tài cải cách ruộng đất là “Nước mắt một thời” xuất bản năm 2009 và “Hoàng hôn lạnh” xuất bản năm 2011.

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng (1940-2022) tên thật Nguyễn Đăng Khoa, sinh ra và lớn lên ở xã Hòa Bình, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông bắt đầu dự phần vào xã hội bằng nghề dạy học tại quê nhà. Từ năm 1961 đến năm 1971, dù là giáo viên môn Toán nhưng ông lại đam mê sáng tác văn chương. Ngoài truyện ngắn “Em học trò và người cha ấy” đoạt giải thưởng của Bộ Giáo dục Đào tạo, ông còn có bài thơ “Mùa lúa chín” được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc thành ca khúc “Em đi giữa biển vàng”nổi tiếng.Năm 1971, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng được biên chế sang Hội Văn nghệ Thái Bình. Ý thức theo nghề viết lách chuyên nghiệp được ông đánh dấu bằng việc lấy bút danh Nguyễn Khoa Đăng thay cho tên thật Nguyễn Đăng Khoa, với lý do: “Lúc ấy nổi lên hiện tượng thần đồng Trần Đăng Khoa rất lừng lẫy. Mình không muốn có bất kỳ sự nhầm lẫn hoặc sự ngộ nhận nào”. Thái độ tự trọng của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng sau này được nhà thơ Trần Đăng Khoa đồng cảm bằng sự tếu táo: “Lẽ ra không cần đổi ngược Đăng Khoa thành Khoa Đăng. Em và bác đều là Khoa. Bác là Chính Khoa, còn em là Phụ Khoa”.

Non sông thống nhất, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng chuyển vào công tác ở Hội Văn nghệ Kiên Giang từ năm 1977. Mảnh đất phương Nam với nhịp sống mới đã khơi nguồn cảm hứng để nhà văn Nguyễn Khoa Đăng có một loại tác phẩm, như tập truyện ngắn “Khói đốt đồng” (1981), tập truyện ngắn “Nước xanh biêng biếc” (1986) tập truyện ngắn “Tình yêu một thuở” (1989), tiểu thuyết “Ngõ tre rì rào” (1990) tiểu thuyết “Số phận nghiệt ngã” (1991)...

 Giai đoạn đổi mới, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng dù ở Kiên Giang vẫn được nhiều đạo diễn ở TP.HCM đặt hàng viết kịch bản phim. Tiêu biểu như phim truyện “Giai điệu xanh”, phim truyện “Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc”, phim tài liệu “Tao đàn Chiêu Anh Các”...Tuy nhiên, tác phẩm mà nhà văn Nguyễn Khoa Đăng bỏ công chăm chút thời lập nghiệp ở Kiên Giang là cuốn sách “Cài hoa vào quá khứ”. Đó là những câu chuyện sư phạm mà ông chắt chiu suốt một thập niên đứng trên bục giảng. Cho nên, khi đến chào ra mắt nhà thơ Chế Lan Viên vào năm 1984, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã đưa bản thảo “Cài hoa vào quá khứ” để tiền bối góp ý. Bằng con mắt một bậc thầy lão luyện, nhà thơ Chế Lan Viên đã viết thư hồi âm cho nhà văn Nguyễn Khoa Đăng: “Cuốn sách này hội tụ phẩm chất nhà văn – nhà giáo của anh, chắc chắn sẽ không chỉ được in một lần. Tôi và nhà văn Vũ Hạnh sẽ ký tên giới thiệu anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam”. Quả đúng như nhà thơ Chế Lan Viên tiên liệu lúc còn tại thế, cuốn sách “Cài hoa vào quá khứ” sau khi được Nhà xuất bản Trẻ ấn hành lần đầu tiên vào năm 1993, đã trở thành tác phẩm được tái bản nhiều lần nhất trong sự nghiệp của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng.

Ở Kiên Giang, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng còn được biết đến với tư cách “thầy cãi”. Không lẽ nhà văn Nguyễn Khoa Đăng cũng có thẻ hành nghề luật sư? Không, ông chỉ đơn thuần là một người cầm bút, nhiều năm làm Phó Chủ tịch Hội văn nghệ Kiên Giang. Dịp 2/9/1989, trong một cuộc mitting kỷ niệm Quốc khánh, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang – Nguyễn Tấn Dũng đã gặp riêng nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và bảo: “Tỉnh ta chưa có Đoàn luật sư, nên có rất nhiều người dân ra tòa mà không nhận được sự hỗ trợ tư pháp nào. Tôi muốn mời anh tham gia Đoàn bào chữa viên!”. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng lúng túng: “Tôi có được học hành gì về ngành luật đâu, làm sao đảm đương được!”. Vị Chủ tịch tỉnh tiếp lời: “Tôi đã tham khảo ý kiến của Mặt trận Tổ quốc rồi, nhiều người giới thiệu anh. Tôi cũng đã đọc nhiều tác phẩm của anh, cách lập luận của anh rất chặt chẽ và có lý có tình. Tôi tin anh có khả năng làm bào chữa viên!”. Trước sự chân thành của lãnh đạo, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đành gật đầu, dù bụng bảo dạ rằng mình chỉ ghi tên cho có, chứ dễ gì được ra tòa.

Cuối tháng 9/1989, với tư cách Chủ tịch UBND tỉnh, ông Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Đoàn bào chữa viên tỉnh Kiên Giang, gồm 20 người. Những người tham gia Đoàn bào chữa viên phần lớn là giáo viên, công chức đang công tác ở các ban ngành. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng nhận danh sách ấy, và rất an tâm với vai trò… dự bị. Thế nhưng, chỉ chừng 10 ngày sau, khi đang rung đùi ngồi mần… thơ ở Trụ sở Hội văn nghệ Kiên Giang, thì Nguyễn Khoa Đăng nhận được hồ sơ của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương yêu cầu bào chữa cho một bị cáo bị truy tố tội danh “xúc phạm mồ mả người chết”. Dù cái quạt trần vẫn quay vùn vụt, nhưng mồ hôi Nguyễn Khoa Đăng cứ đầm đìa hết giọt ngắn lại giọt dài.

Sau một hồi suy nghĩ, Nguyễn Khoa Đăng vội vàng chạy đến máy điện thoại và bấm số văn phòng ủy ban tỉnh: “Ông Chủ tịch ơi, tui là người cuối cùng trong danh sách bào chữa viên, mà sao… chưa gì đã phải ra tòa rồi!”. Đầu dây kia nghe rõ giọng cười của ông Nguyễn Tấn Dũng: “Chính tôi gợi ý Trưởng đoàn bào chữa viên để anh làm tiên phong!”. Nhà văn càng hoảng hốt: “Ôi, loại người lơ ngơ mơ mộng như tui làm sao xuất quân đầu tiên được. Không khéo vừa trông thấy hội đồng xét xử thì tui đã á khẩu!”. Vẫn giọng cười như ban nãy: “Anh cứ bình tĩnh. Tôi đã tiếp xúc với tất cả 20 người trong đoàn bào chữa viên rồi, anh là người mà tôi hy vọng nhất. Anh có nhớ khi tôi còn làm Bí thư Hà Tiên không? Có lần anh đi thực tế sáng tác xuống đó, đã có một buổi trò chuyện với tôi về chuyện mở đất và chuyện luật lệ Gia Long. Chứng tỏ anh có hiểu biết nhất định, và anh sẽ làm được!”.

Quả nhiên, phiên tòa ấy, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng bào chữa rất rành mạch. Tiếng lành đồn xa, Nguyễn Khoa Đăng bỗng nổi danh… thầy cãi ở xứ Kiên Giang. Với chiếc xe máy cà tàng, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng trong cái nghề mới nghe rất oách là bào chữa viên, đã đi khắp các huyện Tân Hiệp, Châu Thành, Kiên Hải, Gò Quao, An Biên… để giúp đỡ những người dân nghèo khi đứng trước vành móng ngựa. Thẩm phán tòa án huyện hay tòa án tỉnh đều biết đến ông, và luôn xem ông như một cộng sự uy tín cho quá trình thực thi pháp luật trong giai đoạn Kiên Giang chuyển mình cùng đất nước đổi mới.

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng tại toà án làm bào chữa tại Kiên Giang 

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đúc kết kinh nghiệm: “Mỗi khi tôi nhận một vụ kiện thì thức trắng mấy đêm để tìm đọc các văn bản pháp luật. Một điều nữa giúp tôi hết sức làm thầy cãi vì tôi thấy đây là công việc gắn bó với số phận con người sâu sắc. Có những cuộc đời nhiều ngã rẽ và trắc trở đến mức dù giỏi đến đâu cũng không tưởng tượng được! Những người phạm tội, có khi vì nông nổi mà cũng có khi vì không am tường pháp luật. Khi đối diện với hội đồng xét xử, họ cần có người đồng hành để nói ra sự thật mà chỉ có họ mới thấu đáo!”.

Suốt 4 năm có mặt trong Đoàn bào chữa viên tỉnh Kiên Giang, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã tham gia cãi 216 vụ án. 216 lần ra tòa, đối với ông là 216 lần suy tư, vì thân chủ của ông đều là những người nông dân ít học và túng bấn: “Tôi hãnh diện những ngày tháng tôi đã làm thầy cãi giùm những con người lam lũ và nghèo khó ấy!”. Nói về một vụ án khó quên nhất, bào chữa viên thuở nào Nguyễn Khoa Đăng liền nhắc một đối tượng bị phán xử tử hình vì hành vi giết chết bốn mạng người. Khi kết thúc phiên tòa, bị cáo đã khoanh tay thưa với người bào chữa: "Em cảm ơn luật sư. Luật sư không cãi cho em khỏi tội chết, nhưng đã giúp em nói với mọi người là bản chất em không xấu xa và tàn nhẫn. Em phạm tội chỉ vì bị kích động quá mức...". Sau ngày đối tượng bị thi hành án, người ta thấy trên vách phòng giam tử tù có mấy câu viết bằng máu "Xin cám ơn ba má và xin cám ơn ông Nguyễn Khoa Đăng".

Ngược lại, cũng có trường hợp khiến bào chữa viên như nhà văn Nguyễn Khoa Đăng cũng bất ngờ. Đó là vụ án một phụ nữ bị truy tố tội danh “chống người thi hành công vụ”. Người đàn bà này có đứa con trốn lệnh truy nã, nửa đêm mò về nhà. Bản năng người mẹ đã khiến bà che chở và giấu kín đứa con. Khi công an đến vây bắt, bà đã la lên để con trai bỏ chạy. Ngày Tòa án nhân dân huyện Hòn Đất xét xử, bào chữa viên Nguyễn Khoa Đăng kiến nghị hội đồng xét xử nên dành cho bà mức án treo, cũng đã đủ sức trừng phạt và răn đe, vì hành vi của bà xuất phát từ tình thương của một người mẹ. Tòa tuyên “8 tháng tù treo”, Nguyễn Khoa Đăng tưởng thân chủ vui mừng lắm, ai dè người đàn bà kia đi đến trước mặt ông tuôn luôn một tràng: “Tui mời ông làm thầy cãi để cho tui được nhẹ tội đi, sao ông lại khiến tui bị nặng tội thêm. Người ta thì tù giam, còn tui thì tù treo. Ngồi tù đã khổ, mà tui còn bị treo lên xà nhà. Mà treo có ít đâu, treo ròng rã suốt 8 tháng thì thân già của tui sao chịu nổi. Trời ơi trời! Tui đã chuẩn bị một cặp gà rất mập, dự định sau phiên tòa sẽ mang đến cho ông. Bây giờ tôi không cho nữa. Ông là đồ ác độc!”. Nói xong, đối tượng ôm mặt khóc rưng rức, khiến cả người dự khán lẫn cảnh sát hỗ trợ tư pháp đều bật cười. Trớ trêu quá, chủ tọa phiên tòa đành phải giải thích thế nào là tù giam, thế nào là tù treo. Nghe ra, người đàn bà được hưởng án tù treo, liền lau nước mắt: “Xin lỗi luật sư, ngày mai tui mang cặp gà đến cho ông!”.

Suốt thời gian làm bào chữa viên, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng rất được những người công tác trong ngành tòa án quý mến. Thậm chí, nhiều vị thẩm phán còn cho ông mượn sách luật để trau dồi thêm kiến thức. Thế nhưng, có một chuyện khiến nhà văn Nguyễn Khoa Đăng không bao giờ quên. Đó là phiên tòa ở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, xét xử tranh chấp sở hữu một ngôi nhà. Bên nguyên đơn có tiền, mời luật sư trên TPHCM xuống. Còn bên bị đơn nghèo, đành nhờ Nguyễn Khoa Đăng. Ông bào chữa viên không bằng cấp đã “đấu” với ông luật sư chuyên nghiệp rất quyết liệt, phiên tòa mấy lần ngắt quãng vì những tiếng vỗ tay dào dạt. Kết thúc phiên tòa, trời đã xế chiều, Nguyễn Khoa Đăng hối hả leo lên xe rồ ga phóng đi vì nhà ông cách xa nơi xét xử gần 40 cây số. Đang bon bon, bỗng nghe ai gọi phía sau, Nguyễn Khoa Đăng quay lại, thì ra vị thẩm phán vừa ngồi ghế chủ tọa phiên tòa. Nguyễn Khoa Đăng hơi giật mình, không biết lúc tranh biện hăng say có thái độ gì khiếm nhã với hội đồng xét xử không? Vị thẩm phán đến gần, dúi vào túi áo Nguyễn Khoa Đăng một cái phong bì: “Nghe danh của anh đã lâu. Anh cãi hay lắm. Em có chút ít gửi anh đổ xăng!”. Khi bóng dáng vị thẩm phán khuất xa, Nguyễn Khoa Đăng vẫn chưa hết ngạc nhiên khi mở cái phong bì thấy có 50 ngàn đồng. Nhiều năm gắn bó với tòa án, Nguyễn Khoa Đăng thừa biết thu nhập của các thẩm phán cấp huyện rất khiêm tốn. Số tiền này có lẽ là thù lao cả một tuần cầm cân nảy mực của vị thẩm phán nọ. Vốn nhạy cảm, nhà văn ứa nước mắt trước tình người giản dị và phóng khoáng!

Năm 1993, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và gia đình chuyển lên TPHCM sinh sống. Ngoài viết bài cộng tác cho các báo, công việc được nhà văn Nguyễn Khoa Đăng tâm đắc là làm tư vấn pháp lý ở Văn phòng luật sư Người Nghèo. Trải nghiệm làm thầy cãi được nhà văn Nguyễn Khoa Đăng tích tụ thành tập bút ký “Khóc cười trước vành móng ngựa” và tiểu thuyết “Bị cáo ở hồ uyên ương”.

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng viết được nhiều thể loại khác nhau. Với độc giả thiếu nhi, ông có tập thơ “Đội nón cho cây” và truyện dài “Chim mặt người”. Với độc giả bình dân, ông có hai tập truyện trắc nghiệm tâm lý “Trăm nỗi éo le” và “Cảnh ngứa mắt chốn đông người”... Đặc biệt, cố hương Thái Bình mà ông từng có những lời thơ trong trẻo “Em đi giữa biển vàng, nghe mênh mang trên đồng lúa hát. Hương lúa chín thoang thoảng bay, làm lung lay hàng cột điện, làm xao động cả hàng cây” lại có những mệnh kiếp trầm luân theo lịch sử luôn ám ảnh ông khôn nguôi. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã dành 10 năm để nghiền ngẫm và viết hai cuốn tiểu thuyết về đề tài cải cách ruộng đất là “Nước mắt một thời” xuất bản năm 2009 và “Hoàng hôn lạnh” xuất bản năm 2011.

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng hiền lành và cần cù. Ông không bon chen danh lợi, nhưng sẵn sàng vứt bỏ sự rụt rè thường ngày để lao vào một công việc mà ông cảm thấy có ích cho người khác. Những năm cuối đời, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng có tiểu thuyết “Mây chiều bãng lãng” phản ánh những xao xác tuổi già trước những buồn vui duyên nợ.

LÊ THIẾU NHƠN

Các Bài viết khác