NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

NHÀ THƠ QUANG DŨNG NHƯ TÔI TỪNG ĐƯỢC BIẾT

( 02-09-2021 - 03:19 PM ) - Lượt xem: 996

LTS: Nhà thơ Quang Dũng sinh năm 1921, đến nay vừa chẵn 100 năm. Không chỉ là bạn văn trẻ của Nguyễn Huy Tưởng từ hồi kháng chiến chống Pháp, ông còn là đồng nghiệp sau này với phu nhân của nhà văn – bà Trịnh Thị Uyên – hồi cùng công tác ở Nhà xuất bản Văn học. Xin giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Huy Thắng, con trai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng và bà Trịnh Thị Uyên về nhà thơ Quang Dũng, với những hồi ức và kỷ niệm ông từng có thông qua cha mẹ mình.

Lần đầu tiên tôi biết nhà thơ Quang Dũng là ở nơi sơ tán. Hồi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, tôi theo cơ quan mẹ sơ tán về vùng đất Đường Lâm, Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Mẹ tôi làm ở Nhà xuất bản Văn học, cùng cơ quan với bác Quang Dũng. Bà làm thủ quỹ kiêm đếm chữ, bác Quang Dũng làm biên tập. Ấy là tôi nghe thế, chứ biên tập là thế nào tôi cũng không biết, vì nhà tôi cũng như nhà các bác các chú khác trong cơ quan mỗi gia đình sơ tán về một nhà dân, từ sinh hoạt đến công việc của mỗi cán bộ nhân viên trong cơ quan đều khép kín nơi nhà dân đó. Tóm lại, tôi chỉ biết bác Như Phong là giám đốc, chú Lư (Lữ Huy Nguyên), chú Toàn (Hoàng Thúy Toàn) làm biên tập, cô Tuyết sửa bài, cô Thảo làm thủ thư... Còn cụ thể biên tập, sửa bài, thủ thư là gì thì tôi không biết (ngoại trừ việc cô Thảo thi thoảng vẫn cho tôi mượn sách). Tôi cũng không hề hay biết về “bề dày thành tích” của mỗi người, rằng ai là nhà văn, ai là người dịch, người nào có tác phẩm gì nổi tiếng, v.v... Với bác Quang Dũng cũng vậy. Bấy giờ tôi có cảm giác ai cũng như ai, biên tập, hành chính, nhà văn, nhà thơ... thì đều là cán bộ cơ quan đi sơ tán góp phần đánh Mỹ cả!

Riêng với bác Quang Dũng, không biết kháo nhau thế nào mà lũ trẻ con chúng tôi lại biết bác là tác giả bài thơ Tây Tiến. Có đứa thậm chí thuộc cả bài. Còn ít ra đứa nào cũng biết một đôi câu. Lũ “chíp hôi” phần lớn thích hình ảnh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Mấy anh lớn tuổi hơn lại thích câu “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. “Dáng kiều thơm” là thế nào thì đố đứa nào biết, nhưng “mơ Hà Nội” thì không chỉ trong đêm mà nhiều lúc ban ngày cũng cồn lên nỗi nhớ. Riêng tôi đặc biệt thích câu “Áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Mỗi khi cao hứng cất lên mấy tiếng “gầm lên khúc độc hành”, tôi như thấy con sông Mã cũng dựng đứng lên trong trí tưởng...

(Tiếc rằng khi ấy, tôi chưa được biết, bài thơ Tây Tiến từng được phổ biến trong kháng chiến chống Pháp, có một phần “tiếp sức” của cha tôi, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Cuối năm 1948, nhà thơ Quang Dũng được cử đi dự Đại hội toàn quân của Liên khu III, sau khi ông từ mặt trận Tây Tiến trở về. Ông đã làm rất nhanh bài thơ Tây Tiến để đọc trước đại hội và bài thơ đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Trong số các đại biểu về dự đại hội có cha tôi, đại diện cho Hội Văn nghệ trung ương. Cặp mắt xanh của ông Tưởng đã nhận ra ngay giá trị của bài thơ và ông đã đem theo nó khi trở về Việt Bắc. Chỉ ít lâu sau, Tây Tiến được đăng trên báo Văn nghệ, số chuyên về “Văn nghệ bộ đội”, được mọi người chuyền tay nhau đọc, nhiều người còn chép vào sổ tay hoặc gửi tặng nhau…

Nếu biết, hẳn tôi đã dám đánh bạo mà hỏi chuyện bác, và chắc chắn sẽ biết thêm ối điều thú vị làm giàu cho thế giới tinh thần của tôi về cha mình, cũng như về các đồng nghiệp của ông trong kháng chiến và hồi đầu hòa bình lập lại, trong đó có tác giả bài thơ Tây Tiến.)

 Song ở bài viết này, tôi muốn được nói về một “nghề” tay trái của bác Quang Dũng, nếu như có thể gọi như thế: nghề vẽ. Bấy giờ ở phía sau chùa Mía thôn Mông Phụ có nhà cụ Toại, một cụ già rất yêu văn nghệ. Nhà cụ Toại có cái cửa sổ tròn mà theo hồi ức của nhà thơ Ngô Quân Miện thì nó giống như trong tích “Phụng Nghi Đình”; ông vẫn hay cùng nhà thơ Quang Dũng đến nhà cụ chơi xem đoàn chèo Hà Tây diễn tập ở đó. Tôi thì nhớ nhiều hơn đến cây dâm bụt mọc ở bức tường đầu nhà, lá xanh bông đỏ, mỗi khi có nắng chiếu vào thì ánh lên làm tươi cả căn nhà khang trang được xây bằng đá tổ ong. Sân, hè luôn được quét tước sạch sẽ, tất cả toát lên một cảm giác gọn ghẽ, phong quang. Bác Quang Dũng hay bắc giá vẽ trên sân, đứng ngay bên bức tường đầu nhà mà vẽ.

Mỗi khi bác Quang Dũng đến vẽ, bọn trẻ con chúng tôi kéo tới xem ngay. (Không hiểu sao lũ chúng tôi thính thế, phải chăng trẻ con bao giờ cũng thích cái đẹp?) Quả là trông bác Quang Dũng vẽ thích thật. Bác người cao lớn, nhưng cử chỉ thật từ tốn, khoan thai. Bác chăm chú tập trung vào bức vẽ, không ngừng đưa bút quệt quệt phết phết, thỉnh thoảng lại đứng lui ra ngắm nghía, miệng lúc nào cũng như có nét cười, nhất nhất ai hỏi gì, nói gì đều tham gia được ngay. Bác ăn mặc giản dị, chắc là áo ka ki, quần vải, và đều đã sờn cũ, nhưng không hiểu sao với tôi lúc nào bác cũng là mặc áo lính, loại áo va-rơi có cầu vai (phải chăng do ấn tượng từ bài Tây Tiến mà đâm hình dung ra một cái gì đó rất “tây”?) Mãi về sau này, đọc các bài viết về Quang Dũng, thấy nói bác khi mặc áo vải mộc, khi áo công nhân xanh, và thường là ngắn cũn so với khổ người to lớn của bác, tôi mới biết vậy, chứ trong ký ức tôi vẫn đinh ninh bác luôn mặc áo lính gọn gàng, phẳng phiu, và nhất định là phải có cầu vai. Tóm lại là rất hào hoa!

Tôi không nhớ lắm cụ thể bác vẽ gì, đẹp xấu ra sao, nhưng chắc chắn đó là những bức tranh phong cảnh xứ Đoài như tôi có thể cảm nhận được qua những cảnh sắc thân quen, và nhất là màu sắc thì thiên về gam nâu vàng như màu chủ đạo của vùng đất Đường Lâm khi ấy. Chúng tôi cũng không hỏi bác vẽ để làm gì, sáng tác hay chỉ là vẽ chơi. Tôi có cảm giác việc bác vẽ cũng tự nhiên như khi người ta ăn, ngủ, hát, nói vậy. Sau này, được biết qua lời kể của ai đó, rằng bác Quang Dũng còn biết múa kiếm, đôi lúc hứng lên bác với thanh kiếm múa tít, tiếng kêu vù vù như trong phim chưởng, tôi cũng không mấy bất ngờ. Không hiểu sao, tôi vẫn nghĩ, với bác Quang Dũng, làm thơ, vẽ, múa kiếm... đều là những việc hoàn toàn tự nhiên, như thể sinh ra đã là như thế rồi!

* *  *

   Năm 1978, tôi tốt nghiệp đại học ở Rumani về nước. Mẹ tôi cũng vừa được cơ quan cho nghỉ hưu. Bà sinh năm 1921, cùng tuổi với bác Quang Dũng. Nhưng do là phụ nữ nên được nghỉ hưu trước. Mẹ tôi về hưu, tôi ít có dịp sang cơ quan chơi, nên suốt một thời gian dài không gặp lại bác Quang Dũng cũng như nhiều các bác các chú khác mà tôi quí mến. Thế nên tôi rất vui khi một hôm, bác Quang Dũng đến chơi nhà. Bác đến không hề báo trước, vì thế có làm chúng tôi hơi lúng túng. Không biết bác có nhận thấy thế không, nhưng về phần mình, bác hoàn toàn tự nhiên như chẳng có điều gì bất thường ở đây cả. Rõ là bác rất vui khi đến thăm một đồng nghiệp cũ. Sau mấy năm không gặp, tôi thấy bác có phần già đi, dễ nhận ra lắm ở hàng ria mép đã ngả bạc. Nhưng cử chỉ của bác thì vẫn nhanh nhẹn, thoải mái như xưa. Bác khéo léo cúi người, hơi co từng bên chân lên tháo giày ba ta ra rồi bước vào nhà. Ngồi vào bàn, trong khi chủ nhà còn đang lo pha nước thì bác đã vào chuyện. Bác cho biết cũng đã về hưu được ít lâu, hôm nay mới đến thăm mẹ tôi được, chỗ hưu trí với nhau cả. Nhận ra tôi, bác hỏi dăm ba câu chuyện hồi ở Rumani có đi chơi được đâu không, rồi lại quay sang hàn huyên chuyện cơ quan với mẹ tôi. Bác kể người này người nọ cũng đã về hưu, mấy người trong số đó bác đã có dịp đến chơi thăm hỏi. Rồi bác hỏi về cuộc sống của gia đình chúng tôi. Bấy giờ đang thời bao cấp, thứ gì cũng khan hiếm, nhất là lương thực, thực phẩm lại càng thiếu. Nhà tôi, mà các nhà khác cũng thế thôi, phải xoay xỏa đủ cách để lo liệu bữa ăn hàng ngày. Chẳng hạn chế biến bo bo sao cho dễ ăn, nhưng tốt nhất là đổi sang mì, sang gạo, dù có hao một chút nhưng còn dễ tiêu. Hay có một số người thì áp dụng phương pháp uống thật nhiều nước vào lúc sáng sớm, nghe nói tốt lắm... Bác Quang Dũng không có ý kiến gì về những mẹo mực ấy. Bác chỉ khuyên mẹ tôi nên nhai thật kỹ khi ăn. Nhai càng kỹ càng tốt, vừa đỡ hại dạ dày, vừa đỡ tốn cơm. Đã từ lâu bác áp dụng phương pháp này. Trước kia phải ăn ba bát, nay chỉ cần hai. Nhai kỹ, chị cứ thử mà xem, bác nói với mẹ tôi, sẽ thấy cơm rất ngọt; chả cần đổi gạo mới làm gì, cứ cái gạo mậu dịch ấy nấu lên, nhai thật kỹ, khắc thấy ngon ngay. Nhà tôi đỡ hẳn cái khoản gạo nhờ cách ấy đấy...

Tôi nghe bác nói rất hào hứng, nhưng trong thâm tâm không mấy quan tâm. Đang tuổi thanh niên, ăn nhanh như thổi, tôi theo cách ấy sao được. Mẹ tôi, tôi nghĩ, cũng khó có thể tán đồng. Bà lúc nào cũng chỉ lo con ăn ít sinh ốm đau, làm sao bà dám “phiêu lưu” áp dụng phương pháp ấy. Chi bằng trong nhà có cái gì dự trữ mang ra bán, chứ nhất định không thể thiếu ăn, phương châm ấy của bà tôi biết lắm. Dẫu sao, nhiệt tình của bác Quang Dũng khiến chúng tôi hết sức cảm động. Mẹ tôi hỏi lại bác dạo này thế nào. Bác cho biết vừa tìm ra một việc làm hay lắm. Nhà bác ở phố Bà Triệu, không xa công viên Thống nhất là bao. Chiều chiều, bác và mấy con lại vào công viên, ngồi chơi hóng gió, cho bõ những lúc ở trong nhà tù túng, chật chội. Rồi sau đó là quét lá đem về đun bếp. Công viên có nhiều cây, lá rụng nhiều, chiều nào mấy bố con cũng quét được hàng bao tải lá khô. Vừa vui vẻ, vừa được vận động chân tay, lại vừa được việc. Thỉnh thoảng cũng có anh bảo vệ nguyên tắc, gây khó dễ. Nhưng thường là họ bỏ qua cho. Vả lại, mình quét thế chỉ càng sạch công viên chứ sao. Từ hồi ấy đến giờ, nhà bác đỡ hẳn nạn thiếu chất đốt...

Xin được nhắc lại, bấy giờ còn là thời bao cấp, không chỉ thiếu thốn về vật chất mà về tinh thần cũng rất nghèo nàn. Phải vài năm nữa mới đến thời văn nghệ tự cởi trói theo tinh thần của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Phải vài năm nữa, riêng với nhà thơ Quang Dũng, người ta mới thực sự đánh giá cao sự nghiệp thơ văn của ông, tác giả của những Tây Tiến, Mắt người Sơn Tây, Mây đầu ô, Nhà đồi, Gương mặt Hồ Tây... – những áng thơ, những truyện, những ký tài hoa, giàu cảm xúc. Chỉ riêng những giai thoại về ông cũng đủ để làm nên không chỉ một, mà là nhiều cuốn sách gây xúc động biết bao người. Nhưng riêng với tôi, bác Quang Dũng trước sau vẫn là một người như tôi biết, một đồng nghiệp của mẹ tôi, cái người cao lớn từng đứng vẽ trước hiên nhà cụ Toại ngày nào (nghĩa là dù có cúi người lúi húi bên giá vẽ thì vẫn cứ vượt hẳn những người xung quanh một cái đầu), cái người không biết mặc gì mà lúc nào tôi cũng hình dung ra là rất chải chuốt (còn sao nữa khi người ta trông cứ như là khoác áo va-rơi, lại có cả cầu vai nữa!)... Thế nên nay gặp lại bác, tóc đã pha sương, ria đã ngả bạc, tôi không khỏi cảm khái khi nghe những câu chuyện đượm mùi bếp núc của bác. Đến khi bác đứng dậy ra về, xỏ lại đôi giầy ba ta, tôi hỏi bác còn đi đâu nữa không thì bác bảo: Về thôi. Bây giờ vào công viên thì hơi muộn, tối quá cũng không trông thấy gì mà quét...

Hóa ra, nếu không phải việc đến thăm mẹ tôi, bác Quang Dũng đã vào công viên rồi. Vừa để hít thở không khí trong lành (hay ăn “ốc” – nghĩa là hít khí ốc-xy giữa trời, theo lối nói vui của bác), vừa để quét lá mang về làm chất đốt cho bác gái, thật là một công đôi việc. Còn như thế này, bác không chỉ mất đi cái thú vui đã thành thói quen, mà còn làm hao hụt một phần chất đốt của gia đình. Và tôi tự hỏi, tại sao bác cứ nhất định đến vào chiều hôm ấy, mà không đợi, chẳng hạn, một cuộc gặp mặt các cán bộ hưu trí mà cơ quan hàng năm vẫn tổ chức – cũng sắp cuối năm rồi? Đến lúc ấy hỏi thăm nhau cũng được chứ sao?...

Bác Quang Dũng đã định đi rồi, nghĩ thế nào lại quay lại dặn mẹ tôi: Thế nào chị cũng nhớ nhai kỹ đấy, vừa đỡ hại dạ dày, vừa đỡ tốn cơm. Từ hôm ăn thấy lợi, tôi cứ bảo phải đi phổ biến ngay cho mọi người, mà hôm nay mới đến được chị đấy. Thôi nhé, chào chị. Chào cháu. Thế là hồi ở Rumani, cháu cũng đi được nhiều đấy nhỉ...

* *  *

Đôi lời viết thêm: Nhà thơ Quang Dũng qua đời ngày 13-10-1988, đám tang được cử hành tại Nhà xuất bản Văn học, 49 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, nhưng là ở mặt quay ra đường Hàng Bài, nơi có một cái sân nhỏ ít khi được dùng đến. Buổi ông “về đất” là một buổi chiều rất oi ả, tôi có đến dự và không hiểu vì sao hôm ấy trời lại mưa to thế, đúng lúc đoàn xe tang vừa khởi hành được một đoạn!

 “Số” nhà thơ Quang Dũng, nếu đúng là có một cái số như vậy cho mỗi người, sẽ còn phải vất vả thêm vài năm nữa. Cùng với sự nhận thức mới về văn học nghệ thuật dựa trên giá trị đích thực của tác giả và tác phẩm, Quang Dũng và thơ Quang Dũng rồi cũng được nhìn nhận lại. Bài thơ Tây Tiến của ông được tôn vinh như một trong những bài thơ hay nhất của thi ca kháng chiến. Bản thân ông cũng luôn được đồng nghiệp và người yêu thơ nhớ đến như một trong những gương mặt thi nhân đáng yêu và cũng đáng ngậm ngùi nhất của nền văn học nước nhà. Có thể cái đói, cái khổ của ông vẫn thường được nói đến trong các giai thoại, nhưng âm hưởng chung về Quang Dũng giờ đây là một cái gì đó thật lớn lao, sang trọng. Riêng với tôi, ông là một giọng thơ gồm những chữ “h”: hào hoa, hào hùng, hào sảng. Mỗi khi nghĩ đến ông, trong tôi hay lẫn lộn hình ảnh một Quang Dũng hơi cúi xuống co chân cởi chiếc giầy ba ta, để lộ ra bên trên vai áo cái cầu vai vểnh lên một cách ngang tàng, dù ông không muốn thế...

NGUYỄN HUY THẮNG

Các Bài viết khác