NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa – Nguyên nhân và giải pháp –P2

( 31-05-2014 - 07:24 PM ) - Lượt xem: 1019

Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “An nam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suôn sẻ, dù muộn màng, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có Chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa vì cho là đất vô chủ. Song, các dự án của chính quyền địa phương đó mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà

B- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA VÀ PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945, THỜI GIAN PHÁP CÒN ĐÔ HỘ VIỆT NAM

Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil Économique de L’Indochine (E.E.I) trong các số 685 (10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743 (26-6-1932), 744 (03-7-1932), 746 (17-7-1932), 777 (26-02-1933), 790 (28-5-1933). Trong loạt bài báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử lý việc bảo vệ chủ quyền ấy.

Tác giả chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi ông này viết: “Chủ quyền của xứ An nam trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối cãi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để xác nhận chủ quyền ấy“.

Tác giả gay gắt chất vấn ông Toàn Quyền: “Tại sao nay không phải là cơ hội? Trở lực nào đã ngăn cản xứ “An nam” nhìn nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn phốt phát cuối cùng? Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?

Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ trích nặng lời Toàn quyền Pasquier, Tòa soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm, và buộc nhà báo phải nộp hồ sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa.

Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất quyết không giao nộp hồ sơ, nếu muốn nghiên cứu thì chỉ cho đọc tại chỗ. Trong số báo 746, Cucherousset viết, nếu không có loạt bài của E.E.I thì có lẽ Chính quyền Pháp đã làm ngơ vụ Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.

Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày nguyên nhân tại sao ông phản đối Toàn quyền Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng đốc Quảng Đông:

a/ Chính quyền tỉnh Quảng Đông chưa bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị.

b/ Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước, ở Nam Kinh bây giờ, chưa hề lên tiếng tranh giành quần đảo này và không thừa nhận chủ quyền Quảng Đông.

c/ Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã có chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi rõ trong văn khố của triều đình Huế. Hơn nữa Chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào lý do ngư phủ Trung Hoa thường xuyên ghé đảo bắt rùa, phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa, bởi ngư phủ Pháp cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh. Trong khi ấy, trong một phiên họp của Hội đồng Tư vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của xứ An nam là ông Piguax, Toàn quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại Pháp và vị Tổng trưởng Bộ Thuộc địa đã quyết định đưa nội vụ ra Tòa án quốc tế La Haye.

Ngoài tờ báo E.E.I, c̣òn nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 (Sài g̣òn), tr.605-616, P.A. La Picqueđã dẫn nhiều tài liệu về chủ quyền của Việt Nam; việc Chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về việc dân Hải Nam cướp trên các tàu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông. Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine (Sài gòn), 1930, tr.24 do J. de Lacour & Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của M.A.Krempf. Avenir du Tonkin, số 10495 (17-04-1931), tr.2 khẳng định năm 1816, vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo. Vì thế, cho nên dù năm 1909 Trung Hoa có muốn giành chủ quyền, Chính phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.

Nature (Paris), số 2916, 01-11-1933, tr.385-387, Sauvaire-Jourdan cho biết trên tờ Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở phía Nam Biển Đông, và điểm qua lịch sử từ khi vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng cờ trên đảo năm 1816, đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu đăng ngày 20-6-1909, và đưa ra các đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo ấy.

La Géographie , bộ LX (tháng 11-12/1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những luận cứ theo đó Chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy trì chủ quyền cho Việt Nam vì:

a/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết để lập hải đăng.

b/ Là vị trí thiết lập đài quan sát khí tượng và trạm vô tuyến kịp thời báo thời tiết bão cho tàu bè.

c/ Hoàng Sa có nhiều nguồn lợi kinh tế: quặng phốt phát, cá, rùa…

d/ Vị trí quân sự quan trọng của Hoàng Sa: phong tỏa Vịnh Bắc Việt, cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế.

e/ Lịch sử xác lập chủ quyền: Vua Gia Long đã cho hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm từ năm 1816. Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề ngày 3-3-1925 nói rằng: “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước An nam, không có gì tranh cãi trong vấn đề này“.

Rõ ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động.

Trước hết, khoảng năm 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa.

Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền. Tiếp theo những hành động khảo sát Hoàng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải dương học Nha Trang, là những hoạt động theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15–6–1932, chính quyền Pháp ra Nghị định số 156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1937, Kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt hải đăng, một trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) đặt ở đảo Pattle (Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle.

Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngãi như các triều trước. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dòng chữ: “République Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938″.

Còn với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ, là đất thuộc địa của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ ba cũng như đối phó với pháp lý quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại giao Pháp đã viết trong Bản Ghi chú cho Vụ Châu Á Đại dương rằng: “Việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế An nam”. Ngày 13-4-1933, một hạm đội nhỏ do Trung tá Hải quân De Lattre chỉ huy từ Sài gòn đến đảo Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sự xác định chủ quyền được tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây: Một văn bản được thảo ra và các Thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ Tam tài và thổi kèn trên từng ḥòn đảo.

Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ ấn hành năm 1904 (Bản đồ của Trung Quốc) với cực nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam. Ảnh: N.H.

Ngày 26-7-1933, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công báo Pháp, ghi rõ 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó gồm nhóm Spratley (8o39’ B111o55’ Đ)và các tiểu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu sớm nhất từ ngày 13-4-1930, đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933. Ngày 21-12-1933, Thốngđốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762 sát nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa.

Năm 1938 Pháp lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu – Aba (Ba Bình).

Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “An nam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suôn sẻ, dù muộn màng, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có Chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa vì cho là đất vô chủ. Song, các dự án của chính quyền địa phương đó mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại giấu mặt về ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho Chính phủ Pháp vào ngày 24-7-1933. Ngày 31-3-1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhật đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm (Ile Boisée) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba (Ba Bình) của Trường Sa vào năm 1938, song mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam.

Luật pháp quốc tế thời đó sau Định ước Berlin năm 1885 được hiểu là:

- Việc xác định chủ quyền lãnh thổ là hành động của quốc gia. Chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Đông) không đủ danh nghĩa đại diện cho quốc gia.

- Cũng theo Định ước này, hành động của phía Trung Quốc (năm 1909) không đủ mang lại danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc vì chưa thỏa mãn các tiêu chí về xác định chủ quyền lãnh thổ thời đó. Do vậy, sự im lặng của Chính quyền Pháp ở Đông Dương không có nghĩa là sự thừa nhận chủ quyền của phía Trung Quốc.

Nhật bản bại trận và đầu hàng vô điều kiện Đồng minh 16-8-1945, và đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa.

 Ts Nguyễn Nhã

Các Bài viết khác