NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

HOA TRONG TÂM HỒN THƠ, VĂN

( 10-02-2018 - 04:07 PM ) - Lượt xem: 684

Thế giới hoa rất phong phú, gồm nhiều chủng loại. Tuy nhiên, có những nhóm và cá thể hoa được ưa chuộng cho cảm hứng sáng tác. Nhất là các loài hoa đại diện cho các mùa – xét theo thời gian, và vùng miền – xét về không gian,

I/ HOA NHƯ ĐIỂM THẨM MỸ ĐẶC SẮC

Hoa lá, cỏ cây như gió mây, sông nước,… - các sinh thể tự nhiên, được coi là thiên nhiên. Thiên nhiên vốn là nguồn cảm hứng vô tận của văn chương phương Đông. Điều đó xuất phát từ cội nguồn tư tưởng, từ các quan niệm triết học. Con người có tình yêu với thiên nhiên trong ước muốn được hòa hợp để thanh lọc tâm hồn.

Trong Cảm tưởng đọc Thiên gia thi (Nhật ký trong tù), chính Hồ Chí Minh đã chỉ ra một thực tế: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” và yêu cầu một chất thép mới cách mạng trong thi ca thời đại.

Thiên nhiên được xem như một biểu tượng cơ bản. Thi nhân xưa rất nặng lòng với thiên nhiên.

Nguyễn Trãi coi thiên nhiên như bầu bạn, muốn hóa thân vào thiên nhiên. Thiền sư Viễn Giác có tâm hồn da diết: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai”. Thơ mới với Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Nguyễn Bính được coi như tiếp nối truyền thống phái thơ “điền viên” từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến trong không gian thơ lãng mạn.

Trong văn xuôi hiện đại, thiên nhiên được thể hiện trong nhiều tác phẩm còn  như mối quan hoài của con người với cảnh quan, môi trường sinh sống và sinh thái văn hóa: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp…

µ

Trước hết, hoa như một hình ảnh đầy gợi cảm trong cảnh sắc. Cũng như thiên nhiên, hoa và một hiện tượng lưỡng trị. Hoa là hoa, cũng là người. Hoa vừa là đối tượng miêu tả, vừa là đối tượng để ký thác.

Thế giới hoa rất phong phú, gồm nhiều chủng loại. Tuy nhiên, có những nhóm và cá thể hoa được ưa chuộng cho cảm hứng sáng tác. Nhất là các loài hoa đại diện cho các mùa – xét  theo  thời gian, và vùng miền – xét về không gian,

Có những loài hoa được thiện cảm nhiều, rất thân thiết, gần gũi trong đời sống, môi trường nơi thôn dã: “Trèo lên cây bưởi hái hoa” (ca dao), “Hoa chanh nở giữa vườn chanh” (Nguyễn Bính). Đôi khi, loài hoa có gốc gác suối nguồn trở thành đài các. Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi tên loài hoa ấy trong thơ: “Nhớ em ngà ngọc bên bờ suối/ Tôi gọi em là hoa Thủy Tiên”. Có những loài hoa trở nên linh thiêng vì hiện diện ở chốn trang nghiêm: “Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ/ Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau” (Hoa mẫu đơn – Hồ Dzếnh).

Vườn Chủ tịch trong thơ Tố Hữu được miêu tả với nét vừa cao quý,thiêng liêng, vừa bình dị, thân thiết: “Anh dắt em vào cõi Bác xưa/ Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa… “Có rào dâm bụt đỏ hoa quê/ Như cổng nhà xưa Bác trở về” (Theo chân Bác – Tố Hữu). Nhiều trường hợp hoa lá cũng được nhà thơ đặt trong cảnh hoành tráng: Hoa chuối thắp ngọn lửa núi rừng: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Hoa mơ lại tỏa trắng không gian vời vợi: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”…

Hoa có thực trên đời, nhưng nhiều khi được miêu tả như hoài niệm một thời.

Bằng lăng quyến luyến  không thôi trong ký ức nhà thơ nữ: “Góc phố nhỏ bằng lăng đã nở/ Tím ngát một chiều, nắng hạ vấn vương” (Bùi Kim Anh). Tâm hồn Nguyễn Nhật Ánh trĩu nặng kỷ niệm về Hoa Khế khi nhớ “bao giờ trở lại” Cánh chim em ngày nào: “Lòng tôi hoa khế rụng/ Xuống nỗi buồn nôn nao”.

Tuy nhiên, theo quy ước, cảm nhận thông thường của xã hội về ngôn ngữ hoa, tính cách hoa, cảm xúc về hoa, các nhà thơ tập trung vào hoa như điểm mỹ cảm nổi bật, đặc biệt là trong tình yêu.

Nhóm các hoa màu trắng – huệ, lan, quỳnh,… thể hiện tình cảm trong trắng, tinh khiết. Nhóm hoa màu hồng đến đỏ - đào, hồng, phượng vĩ, lộc vừng,… thể hiện sự sôi nổi, nồng nàn, thắm thiết,… Còn các màu xanh, tím có độ nhạt đến thắm như lưu ly, tigôn, bằng lăng …lại gợi cảm xúc thương nhớ, buồn sầu man mác. Hoa sen, hoa cúc thường thu hút cảm hứng của nhiều nhà thơ cũng như nhà văn.

II/ HOA VỚI TÂM HỒN VÀ PHONG CÁCH THƠ, VĂN

Mỗi người viết, tùy tạng riêng , trạng thái tâm hồn và cảm xúc cá nhân  mà có sự chú tâm nhất định, thể hiện trong sáng tác tác phẩm bằng những loài hoa yêu thích. Từ đó là những sự thể hiện nghệ thuật khác nhau.

Thường các nhà văn miêu tả hoa trong toàn cảnh thiên nhiên. Đó là những mùa hoa trong khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt – Mùa hoa cải bên sông (Nguyễn Quang Thiều), Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng (Nguyên Ngọc), Hoa lan trắng trời Đà Lạt (Khuất Việt Trường),… Ngoài ra, còn có cảnh mai trên miền núi trong tác phẩm của Tô Hoài, thảm  hoa gạo đỏ trên rẻo biên giới trong truyện Ma Văn Kháng.

Các nhà thơ, ngoài con mắt bao quát toàn cảnh, lại thường nhìn kỹ vào vườn hoa, khóm hoa, thậm chí  các chùm hoa, bông hoa. Do trải nghiệm của bản thân và cũng xuất phát từ cảm hứng, ý đồ nghệ thuật mà người làm thơ, viết văn thể hiện ít hoặc nhiều, đậm  hay nhạt hình ảnh hoa trên trang viết.

Nguyễn Duy có chùm Hoa dọc đường xa. Người thơ bình dị mà sâu sắc. Có sự phát hiện Hoa phong lan như “Từng chùm nhan sắc đẹp tươi lạ thường”… “từ trời buông xuống”. Đó còn là cái đẹp tự nhiên gợi nhiều man mác, bâng khuâng tâm hồn như cái “im lặng trắng không tên” của Hoa dại, cái “hắt hiu bông lau” bạc phơ phất qua Hoa lau. Duyên dáng và hóm hỉnh là cảm nhận một hiện thực như phi lý về Hoa gạo, Hoa lúa:

Em có nhiều hoa người ta tặng

… Thứ hoa quý nhất trên đời ấy

Thì chả ai đem mà tặng nhau

Người con gáikhát khao yêu Xuân Quỳnh có nhiều cảm thông giao lưu với hoa. Qua hoa, nữ sĩ thể hiện những tâm tình yêu đương nhiều trạng thái – thực và hư, trần thế và lãng mạn, bâng khuâng, phiêu lãng với Hoa tường vi:

Hoa tường vi như thực, lại như mơ

Hoa tường vi của những ngày xưa

Có lúc nhà thơ như thảng thốt: “Hoa cúc xanh có hay là không có” (Hoa cúc xanh).  Điều đó chẳng khác nào Chế Lan Viên bỗng nhiên bắt gặp và cảm nhận đóa súng hồng: “Hồng như chưa có môi  nào hồng được vậy”, đến nỗi không tin ở mắt mình: “Hỏi: Hoa súng hồng! Hoa súng hồng! Mày có phải hoa không?”. Xuân Quỳnh cảm thụ như Nguyễn Duy, cũng làm thơ về hoa dại trên núi. Nữ sĩ cũng là người biết trân trọng, chắt chiu cái đẹp trên đời cho con người và vì con người.

Có lẽ, Chế Lan Viên là quán quân trong việc làm thơ về hoa. Từ đầu đời cho đến lúc ra đi, Di cảo thơ còn ghi lại: Hoa sữa, Sen hồ, Hương hoa nhài, Hoa giấy, Hoa chạc chìu, Hoa cúc vàng ở Dusseldorf, Các mùa hoa, Sắc mai cười, Hoa dẻ vàng, Chiều xuân, Không có mùa xuân, Hoa súng, Hái hoa, Hoa hải âu, Hoa đỏ màu yên chi (Tập I, II). Đến tập III vẫn còn hoa: Hương đêm, Sen (1), Sen (2), Lau (2), Mỗi lần hoa, Hương sen, Hoa nở, Hoa quỳnh, Hoa trắng, Hồng vàng, Đẳng cấp hoa, Hoa và rễ, Hoa lau,…

Có thể nói một đời Chế Lan Viên làm thơ về hoa, một đời vì hoa.

Làm thơ về hoa để nói lên tình yêu, từ lúc trẻ - Tình ca ban mai, đến lúc đã luống tuổi – Hoa trắng đỏ. Làm thơ về hoa để nói về cuộc sống, tình người, cũng là để nói về tình đời, nói về chính trị, triết lý qua hoa.

Phong cách chính luận, triết luận cũng nổi bật trong hành trình sáng tác thơ về hoa. Hoa trắng đỏ là thơ tình say đắm, thấm đẫm triết lý. Thống nhất biện chứng trong biểu hiện như đối nghịch trong lòng và ngoài đời, nội tâm và ngoại cảnh. Tặng “hoa sắc trắng” nhưng yêu “đỏ hoa hồng”, lòng “yêu như lửa đỏ”, vẻ bên ngoài “vẫn cứ trắng như không”.

Rất nhiều lần, ông làm thơ về một loài hoa: Hoa mai, Hoa đào, Hoa lau,… Nhưng trong đó có cả hoa thật và hoa biểu tượng: Sen Sen hư tưởng, chuyển Cành đào Nguyễn Huệ khác với Cầm cành đào chân lý”.

 Với Tố Hữu, hình ảnh hoa trong thơ cũng xuất hiện theo thời gian. Theo thiên hướng khái quát, nhà thơ thường nhìn hoa lá, hoa trái trong cảnh chung.

Từ ấy (1938) ví tâm hồn nhà thơ là một “vườn hoa lá” ngay khi cầm bút sáng tác. Gần cuối đời nó đã xum xuê hoa trái nơi Vườn nhà (1987). Với nét phong cách sử thi, hoa thường được đặt vào vườn tược, đồng bãi, núi rừng. Hoa mơ rất tiêu biểu cho bút pháp này:

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cau lại vàng

            Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

                      Việt Bắc

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

                Theo chân Bác

Rừng mơ ríu rít, Bác về thăm

                     Chùa Hương

Hoa nhiều khi được dùng theo nghĩa bóng, nghĩa biểu tượng. “Hoa Việt Nam. Hoa bốn mùa mưa nắng” nói lên sức sống đất nước. “Ước gì mang ít hoa xuân sớm”: hoa lửa – sức mạnh chiến đấu, chiến thắng. Và một bài thơ được đặt làm nhan đề cho một tập thơ – Máu và hoa  mang ý nghĩa rất tượng trưng.

Văn và thơ có cách nói khác nhau, do đó đem lại những cảm thụ riêng.

Chế Lan Viên qua Hoa gạo son (Đối thoại mới) thấy như “Người tình nhìn đỏ chói môi hôn” và cảm nhận được ngọn lửa tình yêu: “Chiều tối màu son đỏ chói hồn”.

Cũng viết về Hoa gạo đỏ, nhà văn Ma Văn Kháng lại gợi một cảm giác hào hùng khi dẫn tới một cảnh quan hoành tráng: “Khắp đất nước, không ở đâu hoa gạo có màu đẹp tuyệt như ở đây… Suốt một rẻo biên giới, trên những nương lúa đã bỏ hóa?, hoa gạo rừng rực cháy đỏ một vệt dài tít tắp… đến mùa xuân này…điểm  hoa bừng sáng cả một vùng trời miền biên viễn này. Chẳng có cây nào lại hào phóng sắc đỏ đến thế. Và hoa thì vừa đỏ vừa lực lưỡng đển thế”.

Cũng vậy, hoa mai trong thơ của nhiều tác giả cũng khác nhau.

Mai sân nhà ngày xuân của thơ Thiền xưa (Xuân cảnh) khác hẳn cây mai trong Mường Giơn của Tô Hoài: “Cây mai trắng tinh khôi trên sườn núi kia như biết đứng yên. Nó như cái cây đứng yên để tang bố mẹ. Cánh hoa là nước mắt, nước mắt bảo người sống báo thù cho nó”. Đây là thân phận đau khổ, bị tổn thương trong chiến tranh.

Người đi tìm cái đẹp trên đời – Nguyễn Tuân cũng đã từng nói về hoa với tất cả mỹ cảm nghệ thuật. Tờ hoa là thiên tùy bút trữ tình đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn độc giả. Làng hoa (1956), Trang hoa (1962), Tờ hoa (1966) là ba giọt mật đặc sánh và tỏa hương ngất ngây, được chưng cất từ làng đào Nhật Tân, Quảng Bá, huyện Từ Liêm, quận Tây Hồ; từ cánh đồng hoa muối Vĩnh Linh, Quảng Bình chói chang, đầy cát, gió và từ một công trình làm đường nào đó ở miền Tây Tổ quốc đầy ong, đầy bướm với bạt ngàn hoa, quả cả chục năm trường, nhà văn như con ong cần cù ăn hoa nhả mật (Tờ hoa ngời ánh tài hoa, Đọc tùy bút Tờ hoa của Nguyễn Tuân, Đường Vân).

Vậy là, qua các nhà văn Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Chế Lan Viên,… chúng ta thấy được tâm hồn tài trí, nghệ thuật văn thơ qua mỹ cảm về hoa. Đó là thấy hoa qua người, cũng là thấy người qua hoa.

µ

 Đời thay đổi, hoa biến hóa. Hoa thời nay không chỉ là phẩm vật của tạo hóa mà còn là sản phẩm nhân tạo qua công nghệ sinh học phân tử hiện đại.

Từ vườn hoa, ta có thành phố hoa. Ở nước ta, Đà Lạt được mệnh danh là “Thành phố của ngàn hoa”. Ở đây hội tụ nhiều loài hoa, trong đó có hoa xứ lạnh và cả xứ nóng Châu Phi. Cũng chính tại đây, hoa đi khắp bốn phương trời – Âu, Á, Mỹ, Úc…Đôi khi, cần thiết, hoa “bay” cực nhanh nhờ điện hoa quốc tế mà Việt Nam là một hội viên. Hoa trở thành sản phẩm du lịch, sản phẩm kinh tế và văn hóa. Hoa mang sắc, hương mới và vì thế, có tâm hồn mới,vẻ đẹp mới..

Hoa đã và đang vẫy gọi sự khám phá của những tâm hồn tài hoa văn thơ, nghệ thuật.

ĐOÀN TRỌNG HUY

Các Bài viết khác