NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

CHẾ LAN VIÊN, MỘT ĐỜI SAY ĐẮM THƠ CA

( 12-06-2015 - 06:28 AM ) - Lượt xem: 2503

Với nhà thơ Chế Lan Viên, cuộc đời thơ của ông phản ánh chận thật cái tôi của đời sống cá nhân: sáng tạo, đa sắc thái, đa giọng điệu, luôn tìm tòi nét mới cho thơ

I/ Đôi điều về quê quán, cuộc đời thơ:

I.1 Quê quán

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ra tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị vào ngày 29 tháng 10 năm 1920. Thế nhưng, có thể xem Bình Định là quê hương thứ hai đầy ắp kỷ niệm sâu sắc của Chế Lan Viên. Bởi tuổi trẻ, ông học hành tại Quy Nhơn (lấy bằng Thành Chung) và đi dạy tư tại đây.

I.2 Cuộc đời thơ

Năm 12, 13 tuổi, cậu học trò nhỏ Phan Ngọc Hoan đã bắt đầu tập tễnh làm thơ. Năm năm sau (chỉ mới 17 tuổi), ông đã xuất bản tập thơ đầu tay tên gọi Điêu tàn (có lời tựa như tuyên ngôn nghệ thuật) và bút danh  Chế Lan Viên đã trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Cùng với ba người khác ở Bình Định là Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, và ông- Chế Lan Viên, đã hợp thành một  bộ tứ nức tiếng về thơ ca của xứ dừa Bình Định, nên người thời bấy giờ đặt tên là nhóm “Bàn thành tứ hữu”, thuộcnhóm Trường thơ Loạn.

Cuộc đời ông cũng xê dịch khá nhiều nơi. Có thể điểm qua những mốc thời gian chính:

-Năm 19 tuổi, học ở Hà Nội, rồi vào Sài Gòn làm báo, sau đó ra dạy học ở Thanh Hóa.

- Năm 21 tuổi, ông viết tập Vàng sao, giàu chất triết luận, huyền bí … về cuộc đời.

-Năm 25 tuổi (1945), Chế Lan Viên tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế . Ông đã hoạt động trong giới văn chương cùng với Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Lưu Trọng Lư… . viết bài và làm biên tập cho các báo Cứu quốc, Kháng chiến, Quyết thắng.. . Có lẽ thời gian này, tiếp xúc với hiện thực đời sống quá sôi nổi  nên phong cách thơ ông đã chuyển sang trường phái hiện thực.

- Năm 29 tuổi (tháng 7/1949), được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương khi tham gia chiến dịch Tà Cơn (đường 9 Quảng Trị).

-Năm 34 tuổi (1954), tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học.

-Năm 36 tuổi (1956) công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương …đến năm 1958. Cuối năm này, ông  trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (báo Văn nghệ ngày nay).

-Năm 1963, là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Là đại biểu Quốc hội Việt Nam dân chủ Cộng Hòa  các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.

- Sau 1975, ông sống ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/6 năm 1989, Chế Lan Viên qua đời, thọ 69 tuổi.

- Năm 1996, được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí  Minh  về văn học nghệ thuật. Phan Thị Vàng Anh, con gái của Chế Lan Viên, nối nghiệp cha, cũng là một nhà văn nổi tiếng.

II/  Vài nét vềcái tôi nhà thơ,phong cách, giọng điệu thơ

II.1 Một đời thơ ông gắn liền với tiếng thơ đầy biến hóa.

-Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên của thời tuổi trẻ đã có tập Điêu tàn nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc, là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm". Những tháp Chàm phế tích đổ nát,  điêu tàn là nguồn cảm hứng lớn, là nỗi niềm hoài cổ của Chế Lan Viên về hình bóng của một vương quốc thời vàng son. Với bút danh Chế Lan Viên, có thể hiểu rằng, ông đã tự nhận mình là bông hoa lan trong khu vườn dòng họ Chế- dòng họ vua chúa của dân tộc Chàm ở nước Chiêm Thành xưa).

-Sau Cách mạng tháng Tám, dấn thân vào những hoạt động Việt Minh, sống cùng văn chương và sống với nhân dân, thơ ông đã có những thay đổi rõ rệt. Thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.

- Sau 1975, thơ Chế Lan Viên nghiêng về đời sống thế sự, sự trăn trở của cái "tôi" đa diện. 

II.2 Phong cách thơ

Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo, thể hiện sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lí. "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa" (5) . Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng, những tương quan đối lập..

II.3 Quá trình sáng tác trong đời thơ Chế Lan Viên

- Quá trình sáng tác: có thể phân chia như sau:

+Cái tôi trữ tình trong thơ trước Cách mạng Tháng 8 với giọng điệu buồn đau, sầu não, uất  hận, gay gắt, kinh hoàng… (Cái sọ người, Ngủ trong sao…). Là cái tôi cô độc,  là tình trạng bế tắc của cả một thế hệ thi sĩ lãng mạn.

+Cái tôi trữ tình trong thơ giai đoạn 1945 – 1975. Là cái tôi hòa nhập vào cái ta cộng đồng. Là cái tôi thi sĩ- chiến sĩ. Tập Ánh sáng và phù sa-  có thể xem là một bản tự kiểm đầy nuối tiếc, ân hận như một cái tôi trăn trở khôn nguôi (Ngoảnh lại mùa đông, Ngoảnh lại mười lăm năm là cái nhìn xót xa với quá khứ. Tiếng chim, Tiếng hát con tàu là tiếng hát tâm hồn  với giọng điệu hào sảng thiết tha, say sưa, hòa nhập…Giọng điệu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ sử thi một thời Hoa ngày thường  Chim báo bão, Những bài thơ đánh giặc, Đối thoại mới và phần nào coi như vĩ thanh qua Hái theo mùa (1973 – 1977), Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?,Ngưới đi tìm hình của nước…

+Cái tôi trữ tình trong thơ những năm cuối đời. Giọng điệu thâm trầm, suy tưởng…Là nhà thơ với tâm trạng của cái tôi nhân danh chính mình để đối thoại, độc thoại với chính mình. Là cái tôi đạo đức thế sự…là đối mặt với bệnh tật, cái chết qua những bài: Các mùa hoa, Từ thế chi ca…

- Về bút danh: Ngoài bút danh Chế Lan Viên, ông còn dùng bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị- quê ông), ký dưới bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958…và còn được sử dụng ở nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975.

Ngoài ra, từ 1959 đến 1963, khi làm biên tập báo Văn học, phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ, ông ký tên Chàng Văn. Năm 196, Nhà xuất bản Văn học đã cho in hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của ông với bút danh này. Cũng cần nói thêm trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oah (tức Hoan).

-Về tác phẩm chính:

Thơ: Điêu tàn (1937); Gửi các anh (1954); Ánh sáng và phù sa (1960); Hoa ngày thường (1967); Chim báo bão (1967); Những bài thơ đánh giặc (1972); Đối thoại mới (1973); Ngày vĩ đại (1976); Hoa trước lăng Người (1976); Dải đất vùng trời (1976); Hái theo mùa (1977); Hoa trên đá (1984); Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990); Ta gửi cho mình (1986); Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995); Tuyển tập thơ chọn lọc.

Văn: Vàng sao (1942); Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963); Những ngày nổi giận (bút ký, 1966); Bác về quê ta (tạp văn, 1972); Giờ của đô thành (bút ký, 1977); Nàng tiên trên mặt đất (1985).

Tiểu luận phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952); Nói chuyện thơ văn (1960); Vào nghề (1962); Phê bình văn học (1962); Suy nghĩ và bình luận (1971); Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976); Nghĩ cạnh dòng thơ (1981); Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981); Ngoại vi thơ (1987); Nàng và tôi (1992).

NXB Văn học xuất bản Chế Lan Viên Toàn tập (5 tập), gồm 2 tập Thơ (2002) và 3 tập Văn xuôi (2009).

tVới Chế Lan Viên, Thơ là tiếng nói của cuộc sống dội vào nội tâm của thi nhân. Mỗi nhà thơ có một phong cách thể hiện khác nhau tùy thuộc vào đời sống của họ và của thời đại. Điệu hồn của cá nhân nhà thơ thể hiện qua giọng điệu thơ của họ. Và tất nhiên,  có sự tác động của nhịp điệu đời sống. Là nhà thơ mang tâm hồn cực kỳ nhạy cảm, Chế Lan Viên thích ứng rất nhanh nhạy với các tiến bộ trong nghệ thuật. Cuộc đời thơ của ông phản ánh chận thật cái tôi của đời sống cá nhân: sáng tạo, đa sắc thái, đa giọng điệu, luôn tìm tòi nét mới cho thơ. Chế Lan Viên đã sống trọn cuộc đời cho thơ ca với nét tài hoa vào bậc nhất. Là nhất trụ trong tứ trụ của “ Bàn thành tứ hữu” vang vọng trên văn đàn Việt Nam, có những đóng góp cho Văn học Việt Nam. Và “là bậc thi hào  mà những sáng tạo nghệ thuật chưa có hồi kết”(5).

 

Tài liệu tham khảo:

1/ Nguyễn Đăng Điệp (2002)– Giọng điệu trong thơ trữ tình – Văn học.

2/) Đoàn Trọng Huy (1993) – "Đôi điều về quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên" – Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật số 111.

3/Đoàn Trọng Huy (1993) – Khuynh hướng vận động thơ Chế Lan Viên từ sau 1975, in trong Chế Lan Viên - Về tác gia và tác phẩm – Giáo dục, 2002

4/Đoàn Trọng Huy (2009) – "Tiếng cười trong thơ Chế Lan Viên" – Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 304

5/ Đoàn Trọng Huy (2014), Chế Lan Viên- độc đáo một tiếng thơ giàu sắc điệu, Văn học và ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH& NV tp HCM

6/ Nguồn: wikipedia.org/wiki/Chế_Lan_Viên

TS. NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM

Các Bài viết khác