NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

Á NAM TRẦN TUẤN KHẢI NHÀ NHO YÊU NƯỚC, NGƯỜI HIỆN ĐẠI HÓA THƠ QUỐC NGỮ

( 09-03-2015 - 06:55 AM ) - Lượt xem: 3424

Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Tuấn Khải là ở Hai chữ nước nhà. Có thể nói, một đời ông khắc khoải, bồi hồi, tha thiết với khát vọng về đất nước, dân tộc.

Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983) là nhà thơ cận đại chính thức bước chân vào văn đàn 1921. Tác phẩm chính gồm: Duyên nợ phù sinh I (1921), II (1922) –Bút quan hoài I (1924), II (1927) – Hồn tự lập I (1924), II (1927) – Với sơn hà I (1935), II (1949). Ngoài ra còn có một số sáng tác văn xuôi  (tiểu thuyết, kịch…) và tác phẩm dịch thuật truyện võ hiệp, các bộ tiểu thuyết Trung Quốc cổ điển.

Trần Tuấn Khải là người quê Nam Định, từng lưu lạc ở đất Bắc rồi vào Nam từ 1954 đến cuối đời như ứng với bút danh Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách của ông.Đi nhiều, thấy nhiều cảnh và người cũng thêm nhận thức cuộc đời và cảm hứng văn thơ.

Là người Hán học nhưng cấp tiến chuyển sang học “chữ mới”, viết báo, làm thơ quốc ngữ. Nổi tiếng chủ yếu trong các thập niên 20, 30, ông được “điểm danh” trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm và lọt vào “mắt xanh” của Vũ Ngọc Phan trong bộ Nhà văn hiện đại.

Làm thơ trang trọng cổ kính thể Đường luật và viết phong dao, dân ca, Trần Tuấn Khải nhanh chóng trở thành thi sĩ của quần chúng. Thơ ông gây tiếng vang trên thi đàn và thành tiếng hát nơi bãi chợ, bến xe của những người bình dân. Từ đó là sự lan truyền mạnh mẽ âm hưởng “non sông” qua hồn văn.

Trần Tuấn Khải là người của một thời còn để dấu ấn khó phai mờ đến ngày nay.

1/NHÀ THƠ NHƯ DẤU ẤN BUỔI GIAO THỜI LỊCH SỬ

Trần Tuấn Khảilà nhà thơ nổi danh từ thời tiền chiến. Ông xuất hiện trong thời điểm giao thời của lịch sử, cũng là giai đoạn văn học có tính chất giao thời – giai đoạn cận đại, là khoảng trung gian giữa trung đại và hiện đại.

Đầu thế kỷ XX, cuộc “bình định” bắt đầu thành công, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác xứ Đông Dương. Chế độ thực dân nửa phong kiến hình thành, tiếp tục kìm hãm sự phát triển của đất nước ta. Tuy nhiên, mặt khác, chính điều này cũng gây ra những biến đổi lớn tới tình hình trì trệ lâu đời của xã hội phương Đông.

Việc phát triển kinh tế, mở mang giao thông buôn bán,… tạo ra những biến động xã hội lớn trong kết cấu xã hội. Nông thôn và nhất là thành thị đổi thay theo hướng xã hội hiện đại, nhưng là hướng tư sản hóa kém lành mạnh nhất.

Cuộc đấu tranh giữa cũ và mới diễn ra ngày càng gay gắt qua những vấn đề xã hội là những tâm trạng xã hội.

Vấn đề cứu nước và vấn đề duy tân được đặt ra. Tầng lớp nho sĩ cấp tiến và một phần trí thức mới nhận ra rằng, phải duy tân mới giành được độc lập, nhưng đó không phải là một điều dễ dàng.

Giai đoạn 1900 – 1930 có nhiều sự kiện văn học, nhiều tác giả,tác phẩm thể hiện sự phấn đấu từng bước của quá trình đấu tranh, phát triển, cũng là sự tranh chấp giữa hai nền văn học cũ và mới. Đó cũng là giai đoạn có tính chất giao thời của văn học.

Trước thế kỷ XX, trong lịch sử văn học nước ta, có hai dòng chủ đạo: văn học bác học và văn học bình dân. Mỗi dòng đều có những người sáng tác mang những quan niệm, khuynh hướng nghệ thuật, những lý tưởng thẩm mỹ và những phương tiện thể hiện khác nhau.

Thông thường, hai giới sáng tác thường ít quan tâm tới nhau. Nhà nho xem thường văn học bình dân, ngược lại dân chúng cũng “kính nhi viễn chi” với văn chương bác học xa lạ.

Tuy nhiên, hai dòng văn chương này cũng có những điểm giao nhau, cũng có sự giao thoa, phối hợp trong chừng mực nào đó ở những nhà nho tiến bộ có tư tưởng nhân văn. Họ có quan điểm nhân dân đúng đắn và quan tâm tới thực tế đời sống, cũng như tác dụng hiệu quả nghệ thuật của văn học. Đó là hiện tượng xuất hiện một loại văn chương “lưỡng tính” là dấu nối giữa hai loại văn học. Đây là văn chương bác học được “đại chúng” hóavà văn chương bình dân được “bác học” hóa, thực chất là nghệ thuật hóa.

Thơ văn Trần Tuấn Khải, mà chủ yếu là thơ đã đáp ứng được một loại văn chương mới, có tính chất giao thời với những tính chất như vậy. Một lớp nhà văn thức thời đã đáp ứng được yêu cầu đó, mà chủ yếu là những người cấp tiến có tinh thần dân tộc và lòng yêu nước mạnh mẽ. Phan Bội Châu, Tản Đà là đại diện tiêu biểu, Trần Tuấn Khải cũng là một người “cùng hội cùng thuyền”, tuy nhiên ông có nét đặc sắc riêng khi đi sâu vào việc phát huy và cải biên, đổi mới những thể loại, tình điệu cũ thấm đẫm nét dân gian.

Thực chất, đây là những con chim đầu đàn, góp sức chuyên chở một dòng văn học cổ truyền sang khuynh hướng hiện đại bằng một hướng bay mới. Phương tiện ở đây cũng rất đặc biệt: ngôn ngữ mới – chữ quốc ngữ.

Thực ra, dân tộc hóa và hiện đại hóa là một xu thế tất yếu. Hiện đại hóa kết hợp dân tộc hóa mà không phải là tư sản hóa, không chịu sự chi phối của văn học tư sản. Khuynh hướng này vừa hiện đại, vừa dân tộc, nhưng tính dân tộc được nâng lên một tầm cao mới: dân tộc trong thời đại. Hướng đi này sẽ nhập được vào hướng đại lộ văn học cách mạng và có sự thích hợp với thời đại mới.

Xuân Diệu đã khẳng định rất xác đáng về vai trò, vị trí của Trần Tuấn Khải trong một giai đoạn văn học:

“Có một thời kỳ phôi thai của thơ viết bằng chữ Quốc ngữ từ đầu thế kỷ đến khi xuất hiện phong trào Thơ mới(1932 – 1945) còn đứng lại được Nguyễn Khắc Hiếu và Trần Tuấn Khải. Não, cân, da thịt, xương cốt và hồn vía văn thơ của hai thi sĩ này bền bỉ, trường tồn lắm đấy chứ, thơ của hai vị đã đứng thế trong thời gian. Á Nam bổ sung cho Tản Đà, và Tản Đà lại bổ khuyết cho Á Nam. Cả hai thi sĩ là cái gạch nối quý báu của thơ của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương sang thơ thật là mới của các nhà Thơ mới1932 – 1945”. Đó là lời đánh giá quan trọng trong bài giới thiệu công phu Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải dày 47 trang, của Tuyển thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải – một tuyển tập mới nhất xuất hiện cho tới nay (1984).

2/NHÀ NHO YÊU NƯỚC THỨC THỜI

Trần Tuấn Khải được sinh ra trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Đó là buổi giao thời giữa thời cận đại và hiện đại.

Là thế hệ sinh sau Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưngTrần Tuấn Khải vẫn tiếp nối được chí khí yêu nước và ý tưởng duy tân. Ông viết văn, làm báo, sáng tác thơ và tự xem là một con đường cải tổ luân lý, phát huy tính dân tộc, gìn giữ và chuyển tiếp ngọn lửa yêu nước thiêng liêng. Quan niệm về con đường nghệ thuật của Trần Tuấn Khải thể hiện minh bạch lý tưởng của người cầm bút:

Đời không duyên nợ thơ không sống

Văn có non sông mới có hồn

Nhàn bút – Với Sơn hà I

Ngay từ tập thơ đầu tiên – Duyên nợ phù sinh, ông đã dựng hình ảnh ẩn dụ về người phụ nữ Gánh nước đêm. Phạm Quỳnh nhận ra cái ẩn ý sâu xa: “Ở đời chẳng thiếu những người có chí khí khác thường, cũng từng nặng lòng vì gánh nước non…”.

Trần Tuấn Khải là một người dám viết, mặc dù biết có những hiểm nguy: Hồn tự lập ra đời vào khoảng 1926 – 1927. Mới in được sáu ngày thì bị cấm.

Bút quan hoài với giọng điệu bi tráng và tình cảm về nỗi niềm dân nước được dư luận hoan nghênh. Khi xuất bản thì thực dân Pháp ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ (1927).

Ưu thời, mẫn thế, Trần Tuấn Khải còn là một nhà nho yêu nước và thức thời.

Hưởng ứng phong trào Đông Du, Trần Tuấn Khải đã mấy lần định xuất dương nhưng không thành (1915 – 1916 qua Trung Quốc, 1927 dự định sang Pháp,…). Do liên hệ với các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,… ông bị mật thám Pháp theo dõi và lùng bắt, buộc lòng phải trốn tránh. Tác phẩm Chơi xuânnăm NhâmThân, xuất bản vào 1932 bị Pháp ra lệnh tịch thu ngay sau đó. Ông bị khám nhà, bị bắt – tù giam và tù án treo gần 5 tháng vì tội viết sách “phá rối trị an”, “xúi dân nổi loạn”.Thời gian bị giam cầm ,ông viết Ngục trung vịnh tỏ nỗi bất bình có xen buồn tủi nhưng vẫn giữ niềm tin và hy vọng vào ngày mai  “Phải chăng kia cái vừng đông?”. Ra tù, ông lại tiếp tục viết báo, làm thơ, in sách Với sơn hà I (1935), Với sơn hà II (1949),…

Từ 1954, Trần Tuấn Khải di cư vào Nam. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đời. Với sở trường văn hóa, ông vào làm ở Thư viện Quốc gia, Viện Khảo cổ, làm chuyên viên Hán học tại Nha Văn hóa và viết bài cho các báo Đuốc nhà Nam, Văn hóa nguyệt san,…với khuynh hướng tiến bộ của tri thức yêu nước.

Trần Tuấn Khải luôn nung nấu trong lòng Hai chữ nước nhà. Trong hoàn cảnh bị bủa vây bởi những thế lực phản động, ông vẫn giữ vững khí tiết thanh cao của nhà văn hóa yêu nước.

Năm 1966, ông cùng một số nhà trí thức ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trực tiếp thương lượng với Mặt trận Dân tộc giải phóngMiền Nam nhằm vãn hồi hoà bình, nên bị buộc thôi việc.

Từ 1966 – 1967, ông là Chủ tịch danh dự Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc. Với cương vị này, ông được nhà văn Vũ Hạnh đánh giá là một nhân cách “tuyệt vời”
 trong một buổi lễ tưởng niệm sau này.

Sau 30/4/1975, ông giữ chức Cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi mất.

Nhìn chung lại, Trần Tuấn Khải là người có tư tưởng thức thời, biết vượt thoát quá khứ nặng nề, tù túng để sống thực tế với đất nước, và tìm cách thể hiện lòng yêu nước. Ông còn truyền bá tư tưởng thiết tha vận nước, thiết tha với độc lập dân tộc. Ông đã giữ vững ngòi bút chân chính trên mặt trận văn hóa dân tộc.

Nhiều đánh giá xác đáng về giá trị thơ Trần Tuấn Khải đã được đưa ra. Đương thời có các tác phẩm Việt Nam thi nhân tiền chiến (Sống Mới – Sài Gòn, 1969) nhận xét: “Những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng không ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí ngùn ngụt, một nghĩa vụ thiết yếu của con người, đúng với danh nghĩa “làm người””. Từ điển văn học (Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) nói tới cái thần thái,chủ yếu là nếp sống, cũng là đạo đức truyền thống của dân tộc: “Thơ Trần Tuấn Khải thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng, lòng thủy chung, nhân ái”. Có sự cắt nghĩa, sự yêu thích, tán thưởng của quần chúng: “Và thơ ông đều có ngụ ý nhắc nhở về non sông đất nước. Đấy là cái nhìn ưu thời mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ biến của nhiều người lúc bấy giờ thiết tha với độc lập dân tộc…”.

Thơ Trần Tuấn Khải có tác dụng đặc biệt với người đọc từ thuở thanh thiếu niên cho tới sau này.

Kể lại những kỷ niệm về tiếp nhận thơ một thời, Trần Tuấn Kiệt – soạn giả bộ Thi ca Việt Nam hiện đại (Việt Nam thi nhân tiền chiến – Quyển hạ) trải lòng: “Không hiểu vì sao chúng tôi cảm thấy sung sức với những vần thơ đó: “Chốnải Bắc mây sầu ảm đạm/ Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu”…“Thơ ông đã gieo vào lòng chúng tôi một mối cảm thông hoàn cảnh đất nước. Như một ánh sáng chói lọi mở cho con mắt trẻ trung của chúng tôi cảnh điêu tàn quê hương”, Nguyễn Vỹ đọc Bút quan hoài từ lúc còn nhỏ tuổi cũng cảm thấy chỉ qua hai bài thơ về “nước” (Hỡi cô hàng nước, Gánh nước đêm) “chứa đựng tư tưởng thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng” (Văn sĩ tiền chiến, Văn học, 2007).

Nhà thơ lớn Xuân Diệu tìm thấy tiếng nói tri âm từ tuổi thiếu thời. Từ năm 14 tuổi, học lớp Nhì, mượn được Bút quan hoài, Xuân Diệu đã chép vào quyển vở mới một số đoạn thơ thích nhất: “Quyển vở thơ Trần Tuấn Khải quý báu của tôi như là tiếng gọi của lương tâm!”.

Sau này, tình cảm thủy chung ấy được kể lại trong bài Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải (Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, Văn học, Hà Nội, 1984). Xuân Diệu có phần nhấn mạnh phân tích nội dung yêu nước trong một số bài tiêu biểu: Nỗi chị khuyên em, Bà Trưng tế chồng, Trường thán thi, Hai chữ nước nhà.

3/NGƯỜI VIẾT HIỆN ĐẠI HÓA THƠ QUỐC NGỮ BUỔI ĐẦU

Trần Tuấn Khải không chỉ thức thời về chính trị, tư tưởng mà còn là người có nhận thức phù hợp về tiến bộ nghệ thuật, chủ yếu là thơ ca trên một bối cảnh văn hóa mới.

Hán học đi vào cuối mùa với những khóa thi cuối cùng (1919) trong sự ngán ngẩm của giới Nho sĩ: “Nào có ra gì cái chữ nho” (Tú Xương). Người ta “quẳng bút lông đi” để cầm bút sắt. Phan Kế Bính viết Hủ nho tự trào đăng trên Đông Dương tạp chí(5/1924)như hồi chuông cáo chung cho một lớp người.

Chữ mới – “chữ Quốc ngữ” lên ngôi.

Khởi đầu với công trình của Alexandre De Rhodes vào năm 1651 – Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La tinh, cuốn từ điển đầu tiên về tiếng Việt. Tiếp theo là cuốn được chỉnh lý, phát triển mà người kết thúc chặng đầu là cố Tabert với tác phẩm Nam Việt Dương hiệp từ vựng (1838).

Chữ Quốc ngữ có dạng thức tương đối ổn định và nhanh chóng được ứng dụng rộng rãi trong học đường và ở trong lĩnh vực báo chí, trước hết và chủ yếu ở Nam Kỳ. Gia Định báoxuất hiện từ 1865 và tiếp đó là hàng loạt báo như cầu nối văn thông tấn và văn chương nghệ thuật.

Thơ ca được đăng trên báo và in thành tập như Thơ dạy làm dâu(1882), Phú bần truyện diễn ca (1885)… Nhiều tập thơ đã có sự gia công nghệ thuật như của Thiên Đào – Nhân trung tạp vịnh (1907), Nguyễn Liêng Phong – Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca (1909)…

Phong trào Duy tân, nổi bật là Đông Kinh nghĩa thục (1907 – 1908) đã coi Quốc ngữ là “văn tự nước nhà”. Với kế sách “mở mang dân trí”, chữ Quốc ngữ được tăng mạnh với gia tốc lịch sử.

Trần Tuấn Khải là người gốc Nho học, đã từng dịch nhiều bộ tiểu thuyết Trung Hoa – Thủy hử (1925), Hồng lâu mộng (1934), Đông Chu liệt quốc (1934),… Tuy nhiên, ông đã sớm thức tỉnh kịp thời để đón nhận một luồng gió mới về văn hóa, mà khởi đầu có tính chất tiên quyết là ngôn ngữ văn tự.

Trước ông, các nhà thơ của thập kỷ 20 như Đoàn Khuê, Tương Phố, Đông Hồ đã khá nhuần nhị trong thơ Quốc ngữ. Nhưng nói một cách công bằng thì Á Nam Trần Tuấn Khải và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu mới là những nhà tiên phong nhập cuộc một cách mạnh mẽ và hiệu quả. Đây là hai nhà thơ có công lớn trong thành tựu buổi đầu hiện đại hóa thơ Quốc ngữ.

Các nhà Thơ mới đã chính thức mở rộng và khẳng định tiến trình hiện đại hóa thơ ca Việt Nam. Đó là những người xuất thân “Tây học”, có trình độ Quốc ngữ phát triển và cả phần nào tiếng Pháp và văn học phương Tây – tức được trang bị một hành trang tri thức ngôn ngữ thi ca mới, khác hẳn thế hệ cũ.

Điều quan trọng nhất là chọn một định hướng phát triển. Trần Tuấn Khải đã chọn được đường hướng chính xác, có tính quyết định lịch sử.

Thơ ca chữ Hán đã hết thời, thơ Quốc âm chữ Nôm trong quá khứ cũng không còn triển vọng. Không thể nệ cổ trong tiến trình phát triển, nhưng tìm về ngọn nguồn tinh thần dân tộc là công trình có ý nghĩa.

Khai thác kho tàng văn học dân gian, đổi mới thi pháp cùng với phát huy những yếu tố dân tộc của văn học Trung đại là đúng đắn. Đây cũng chính là sự thể hiện lòng yêu nước trong văn chương.

Trần Tuấn Khải đã góp phần tích cực để giải phóng thơ Quốc ngữ bị gò bó, kìm kẹp bởi những luật lệ thời Trung đại.

Xét một cách tổng thể, từ khuynh hướng, quan niệm viết đến xây dựng thế giới nghệ thuật, thi tứ, thi ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,… Trần Tuấn Khải có tư cách một Nhà cách tân thi ca Quốc ngữ buổi giao thời.

Nhà thơ quan niệm rằng, văn chương mang một sứ mệnh lớn lao: “Hai vai thân thế, một gánh giang sơn, cuộc đời văn chương dẫu đến khi tàn, mà ngòi bút quan hoài biết bao giờ cho ráo mực” (Hồn lụy). Từ đó suy ra: “Văn có non sông mới có hồn”. Vì thế, cái tôi nghệ sĩ nguyện: “Gửi với sơn hà một áng văn” (Với sơn hà). Đó chính là ý tưởng “chủ đạo” của văn học truyền thống (Nguyễn Đình Chiểu), cũng là quan điểm của nhà thơ đương thời Tản Đà (Cùng bạn văn học).

Thơ trữ tình Trần Tuấn Khải thể hiện một cái tôi yêu nước, luôn trăn trở khôn nguôi trước cảnh nước mất, nhà tan. Đó là cái tôi “hồn lụy”, “cái tôi sầu” trong nhân cách thơ. Nhà Nho cầm bút đã ký thác tâm sự yêu nước qua cái tôi ấy. Mật độ từ “non nước”, “giang san”, “núi sông”, “sơn hà” là dày đặc trong thơ gắn với hình ảnh, giọng điệu thơ tha thiết. Nhớ bạn là nhớ: “Lưng thúng giang san vai gánh lẻ (Nhớ ai), thương con ve: “Nghĩ căm thù để rầu cây cỏ/ Mà gọi xuân về với nước non” (Con ve), ngắm trăng: “Khối tình xoay mãi với giang san” (Lời chị Nguyệt)…

Tiếng Việt hồn nhiên mà kỳ diệu trong hình ảnh Tổ quốc là thế: đất nước, núi sông,… Nhiều khi chỉ một từ nước cũng là một ẩn dụ gợi cảm thức sâu xa. Chính vì vậy, qua tâm trạng của người đàn bà vất vả với gánh nước đêm khuya là sự bày tỏ nỗi lòng của một chủ thể trữ tình đầy trách nhiệm với đất nước (Gánh nước đêm). Cái tôi yêu nước Trần Tuấn Khải thường thể hiện rõ trong các mối tâm giao tri kỷ với bạn bè (Nhớ bạn, Gửi bạn, Biên giới gặp bạn). Nhà thơ còn nhập vai vào người phụ nữ có chồng đi xa qua chùm thơ anh Khóa gồm bốn bài: Tiễn chân anh Khóa xuống tàu (1914), Mong anh Khóa (1915), Gửi thư cho anh Khóa (1922) và bài cuối cùng Mừng anh Khóa về (1975). Thực chất, như tâm sự, bộc bạch của nhà thơ, đó là tình cảm tiễn chân các chí sĩ ra hải ngoại tìm đường cứu nước. Lời nhắn nhủ của tình yêu cũng chính là lời giục giã của đất nước qua bức “tâm thư”:

… Ngọn gió năm châu dào dạt sóng duy tân

Tình nhà nỗi nước, chiếc thân anh lo nghĩ trăm chiều

… Anh nghĩ làm sao cho danh nghĩa vẹn toàn

Để treo gương hào hùng với giang san sau này?

Sau giải phóng 1975, thống nhất đất nước là nỗi niềm hân hoan khôn xiết – Mừng anh Khóa vềnhư một khúc vĩ thanh.

Cảm hứng lịch sử trong thơ Trần Tuấn Khải thật mạnh mẽ. Đó cũng là cảm hứng của Phan Bội Châu, Tản Đà,… Chơi thành Cổ Loa là những giọt lệ khóc người xưa lắng lại trong lòng người hôm nay. Trong khi Kỷ niệm Đức Hưng Đạo Vương lại gợi nhớ chiến công oai hùng một thuở.

Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Tuấn Khải là ở Hai chữ nước nhà. Có thể nói, một đời ông khắc khoải, bồi hồi, tha thiết với khát vọng về đất nước, dân tộc.

Bên cạnh cái tôi trữ tình yêu nước còn là cái tôi đạo lý. Nhà thơ đề cao tình bạn, tình anh em, lòng thủy chung, ân nghĩa như cốt cách con người dân tộc: “Trăm năm nghĩa nặng ân dài”. Đó là vì có tình trạng đạo lý suy đồi trong hoàn cảnh xã hội đầy nhiễu nhương: “Năm người quen cũ, ba người nghiện/ Mười trẻ sinh sau, chín đứa hư… Cửa chiền đủng đỉnh vài cô thõa/ Đám hát ra vào mấy bác sư”. Đó là nỗi đau nhân tình thế thái của nhà thơ có trách nhiệm cao với đời.

Thể loại thơ rất phong phú. Mạnh nhất là loại phong dao mới. Đây là nét thành công mới, nổi bật so với lớp nhà thơ cùng thế hệ như Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Đặng Trần Phất,… Nhìn chung, ông vận dụng các thể thơ truyền thống một cách điêu luyện và sáng tạo.

Theo một thống kê, từ Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khảivới 184 bài thơ, không kể phong dao có 76 bài thất ngôn bát cú, 28 bài thất ngôn tứ tuyệt và trường thiên, 2 bài từ khúc, 2 bài ngũ ngôn, 14 bài lục bát, 4 bài song thất lục bát, 8 bài thi ca liên hành, 12 bài hát nói, 19 bài hát vặt, 3 bài ngâm khúc, 9 bài ca lý mới và 7 bài hát xẩm. Quá nửa là thơ Đường luật, còn lại là thơ dân tộc gắn với dân chúng.

Tuy nhiên, phần thành công nhất là mảng phong dao. Số lượng trong tuyển tập là 91 bài, nhưng riêng trong Với sơn hà là 49. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí tách ra mảng sáng tác đặc sắc này. Đó là lối nói, tình điệu dân tộc qua tâm hồn quần chúng. Câu hát vặt là những câu hát rất bình dân. Điệu ngâm sa mạc đã chắp cánh cho thơ bay bổng. Đó là một lối văn chương đặc biệt như lời nhận xét của Vũ Ngọc Phan: Gánh nước đêm, Con hoàng anh, Nỗi chị khuyên em, Ca lý mới theo các điệu Hành vân, Nam ai,… tức điệu ca Huế có yếu tố nhạc thấm sâu vào tâm tình quần chúng:

Một đôi lời (một đôi lời)

Nhắn bạn tình ơi!

Thề non nước giao ước kết đôi

Ở đây, cũng như Tản Đà, Trần Tuấn Khải đã gặp mảnh đất phóng túng của tâm hồn lãng mạn.

 

 

Hội văn bút miền Nam thăm và tặng bức hoạ chân dung cụ Á Nam nhân sinh nhật nhà thơ năm 1974

Ca dao hay phong dao giản dị mà khó làm cho hay. Đây là một sáng tác có vẻ “trái khoáy” với nhà thơ theo khuôn thướcniêm luật của thơ bác học. Vậy nên, hàng trăm bài đã mang tính dân gian thực thụ. Đến mức người ta lẫn lộn phong dao mới của nhà thơ như sản phẩm vàng, ngọc của kho tàng ca dao truyền thống:

Anh đi anh nhớ quê nhà

 Nhớ canh rau muống,nhớ cà dầm tương

Nhớ người dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao

Hoặc

Rủ nhau xuống bể mò cua

Đem về nấu quả mơ chua trên rừng

Em ơi chua ngọt đã từng

Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau

Trong thơ, nổi bật ở phong dao Trần Tuấn Khải có nhiều địa danh chính là những địa điểm trữ tình.Về mỹ cảm đó không đơn thuần là địa lý mà là hình ảnh không gian nghệ thuật.Tâm hồn thơ bao quát những vùng miền và qua đó là những cảm hứng lịch sử,nhân sinh: “Anh đi anh nhớ Non Côi/Nhớ sông Vị Thuỷ,nhớ người tình chung”.Tình riêng thường gắn nỗi niềm chung: “Bắc Nam một mối chung tình/Nhớ công tiên tổ sinh thành chăng ai?”.Không gian lịch sử  thường mang tính bi tráng “gió thảm”, “mâysầu”.Bức tranh thời cuộc mang đậm màu xám(Trường thán thi).

Cũng vậy,có một thời gian nghệ thuật trong cảm nhận nhà thơ.Cái tôi nỗi niềm thường trăn trở về đêm. Đêm như thời khắc trải nỗi buồn ( Buồn đêm mưa, Đêm thu, Gọi đò đêm, Đêm không ngủ…).Luôn luôn là sự khắc khoải lo lắng cho thời gian trôi chảy và ngậm ngùi nghĩ đến cái  “nợ” với đất nước, dân tộc ( Đời người, Nỗi đời…).Có hoài niệm về quá khứ lịch sử qua đó là những dấu tích nuối tiếc và niềm tự hào dân tộc như : “ Khí thiêng phảng phất núi non cao”. Đó là điểm tựa để con người hiện tại hướng tới tương lai.Mừng Xuân Ất Mão 1975, thơ Trần Tuấn Khải đã sôi nổi một không khí thời đại hướng tới ngày mai tươi đẹp: “Gắng công lên, hạnh phúc quyết về ta/Tự do, độc lập, thái hoà”.

Giọng điệu thơ có nhiều biến hoá theo sắc thái cảm xúc.Tâm tình thời thế thường được gửi vào câu ca, tiếng hát thiết tha, trầm lắng trong kết cấu trò chuyện, tâm sự. Có khi là khuyên nhủ, thức tỉnh thân thiết nhưng nghiêm khắc (Hỡi cô hàng nước), lại có lúc khích bác, mỉa mai, phê phán (Mắng bù nhìn).Đôi khi lại là giọng thúc giục hào sảng: “Anh hùng càng trải cơn chìm nổi/Càng vững gan xoay,há chịu đời”(Thuyền đánhcá).Rõ nhất ở các bài Giọt lệ anh hùng, Tráng sĩ hành.

Hệ thống hình ảnh,ngôn ngữ là yếu tố quan trong làm nên thành công của lời thơ.

         Hình ảnh trong phong dao rất gần gũi,thân thuộc,ngụ tình: “con nghé”, “con sáo”…giống “con cò”, “cái kiến”, rồi  đường đi, đồng bãi như cảnh tượng quê hương muôn đời. Ngôn ngữ mộc mạc trong sáng kết tinh lời ăn tiếng nói quần chúng.Từ láy nhiều khi rất dày đặc trong một đoạn thơ; “Ai làm nước vỡ ngang trời/ Để anh lẽo đẽoquê người đường xa/ Thương em thui thủi quê nhà/ Thờ kính mẹ già nuôi nấng đàn con”.

Tuy nhiên,trên lĩnh vực ngôn ngữ thơ,Trần Tuấn Khải bên cạnh những dấu vết cũ cũng có những mạnh dạn đổi mới,đặc biệt là lối diễn đạt mới phù hợp tâm tình con người thời thế hiện đại.Chất liệu ngôn ngữ cổ giảm dần.Hình thức lối nói được đưa vào thơ như mầm mống của loại thơ văn xuôi sau này được khai thác từ hát nói.Khẩu ngữ có chọn lọc gia tăng (Nhàn bút,Ngẫu đời…).Đó cũng là dấu hiệu chuyển biến quá trình điệu ngâm sang điệu nói của thơ hiện đại.

                                                      ***

Trần Tuấn Khải là một nhà thơ danh tiếng đã được định vị  trong lịch sử văn học.

Một thời thơ của ông đã là đề tài giao lưu của tao nhân mặc khách chốn thi đàn trang trọng. Đặc biệt đã trở thành trao đổi của tâm tình quần chúng. “Anh Khoá” đã là “người của công chúng” khắp “non sông”. Đó là vinh dự cũng là hạnh phúc lớn lao của một người viết.

Ở Trần Tuấn Khải đã có bóng dáng của một nhà thơ hiện đại. Đó là nhà thơ biết hướng về tiến bộ nghệ thuật phía trước. Phong vị dân gian từ Nguyễn Bính đến Nguyễn Duy…như là một sự tiếp nối tự nhiên. Vấn đề hiện đại hoá và giữ gìn bản sắc dân tộc vẫn có ý nghĩa thời sự của văn nghệ.

Trần Tuấn Khải, nhà thơ yêu nước  như đang nói chuyện với chúng ta. Dù  đã đi xa nhưng ta vẫn thấy ông gần gũi, người xưa nhưng còn in rõ bóng dáng hôm nay.

Đương thời, thơ Trần Tuấn Khải hấp dẫn từ lớp thanh thiếu niên. Ngày nay, tiếng thơ ông vẫn được lưu truyền trên trang giấy học trò, nơi học đường từ phổ thông trung học tới đại học.

Tuy nhiên, tới nay, nhiều công việc sưu tầm, nghiên cứu còn đang đặt ra phía trước nhằm đánh giá đầy đủ, chính xác, toàn vẹn sự nghiệp một nhà thơ lớn trong dòng văn học yêu nước của dân tộc

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Lê Chí Dũng (2011) Á Nam Trần Tuấn Khải– Nhà thơ của dòng văn học yêu nước những năm 1920. Nguồn: khoavanhocngonngu.edu.vn.

[2] Đoàn Lê Giang (2009) Á Nam Trần Tuấn Khải, anh Khoá với những vần thơ nước non. Nguồn: khoavanhocngonngu.edu.vn.

[3] Đoàn Trọng Huy (2010) Những biểu hiện hiện đại hoá trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX – Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Quá trình hiện đại hoá văn học Nhật Bản và các nước khu vực văn hoá chữ Hán: Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc (từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX).

[4] Nhiều tác giả (1999) Văn học Việt Nam (1900-1945) (3) – Giáo dục.

[5] Phạm Quang Trung (2006) Vai trò của Á Nam Trần Tuấn Khải trong buổi đầu hiện đại hoá thơ Quốc ngữ. Nguồn: khoavanhocngonngu.edu.vn.

 

Các Bài viết khác