NGUYỄN HUY TƯỞNG CÒN VỚI THỜI GIAN
VẤN ĐỀ VÀ SỰ KIỆN
HỒ SƠ BÁO CHÍ
GÓC TƯ LIỆU
Hỗ trợ khách hàng
0909 210 761
Hỗ Trợ Online
Mr. Cường

0909 210 761

Thông tin liên hệ
Điện thoại: 0909 210 761
Email: [email protected]
VIDEO CLIP
Liên kết website
Thống kê truy cập

SỰ XUẤT HIỆN CỦA TAM QUỐC CHÍ TỤC DỊCH VÀ VẤN ĐỀ DỊCH GIẢ CỦA NÓ

( 10-11-2016 - 04:00 AM ) - Lượt xem: 1395

Chỉ có điều khiến người ta khó hiểu ở đây là tại sao Nguyễn Chánh Sắt lại giấu tên mình, mà thay vào đó là tên của Canavaggio? Nghi vấn này hiện tôi cũng không có câu trả lời chính xác, nhưng tôi nghĩ trường hợp “viết thay” hay “dịch thay” cũng không hiếm ở ta từ xưa đến nay

SỰ XUẤT HIỆN CỦA TAM QUỐC CHÍ TỤC DỊCH
Có thể nói, giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là đêm trở dạ, đêm giao thừa của văn học Việt Nam. Nhu cầu cách tân, hiện đại hóa văn học đã đến thời điểm chín muồi: nền văn học cũ suy tàn, thực dân Pháp xâm lược mang theo văn hoá phương Tây, chữ Quốc ngữ thuần thục, báo chí ra đời, Tây học phát triển, v.v… Và Sài Gòn trở thành cái nôi, trung tâm của những “cái đầu tiên” của nền văn học mới, nền văn học Quốc ngữ: báo chí, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ mới, kịch, ký… hình thành và phát triển nhanh chóng.
Thông thường, các cuộc đổi mới văn học đều đi theo trình tự từ dịch thuật, mô phỏng đến sáng tác, tức học hỏi, tiếp thu, chọn lọc, phóng tác đến cái riêng. Rất nhiều khi, trình tự ấy diễn ra ngay trong một tác giả, hoặc tuần tự, hoặc song song, mà đại diện tiêu biểu ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX là: Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoằng Mưu, Phạm Minh Kiên, Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản, Trần Phong Sắc… Trước khi sáng tác (hay bên cạnh sáng tác), những người này đều là các dịch giả trứ danh, mà họ cũng được xem là những nhà văn tiên phong trong nền văn học mới. Điều đó có nghĩa rằng, dịch thuật (cả Tàu lẫn Tây) đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình cách tân, hiện đại hóa văn học. Ở đây xin lấy trường hợp dịch Tam quốc diễn nghĩa làm ví dụ minh họa.
Tại sao Tam quốc diễn nghĩa lại được chọn dịch đầu tiên chứ không phải một tác phẩm nào khác? Điều này ngoài nguyên nhân bởi giá trị nổi bật của bản thân tác phẩm ra, thì một yếu tố quyết định khác nữa là nhận thức và tâm lý của người dịch. Đương nhiên người dịch Tam quốc ở đây phải là một trí thức Nho học, mà người trí thức Nho học đứng trước Tam quốc, Thủy hử, Tây du, Đông Chu, Phong thần, Liêu trai, Ngũ hổ, Tây Hán… và bảo họ chọn một thì thường người ta sẽ ưu tiên số một cho Tam quốc, bởi Tam quốc là tiểu thuyết ẩn chứa nhiều chất trí tuệ, như lời giới thiệu của người dịch: “Tự cổ kim, truyện nầy sử kia cũng nhiều, mà ai ai cũng thường ưng xem Tam quốc. Là vì truyện sử nào cũng đều có nhơn tài trí dõng, mà cũng chẳng đặng nhiều cho bằng Tam quốc”(1). Hơn nữa người Nam Bộ hay thích những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, anh hùng hảo hớn, trung tín hiệp nghĩa như những tác phẩm vừa kể trên, đơn giản vì nó phù hợp, thỏa mãn tâm lý của họ. Trong khi đó, loại tiểu thuyết diễm tình như Hồng lâu mộng, Tây sương ký, Kim Bình Mai… bấy giờ không thấy ai dịch, có lẽ vì không hợp với “khẩu vị” của người Nam Bộ xưa, hoặc giả thời bấy giờ các tác phẩm này đều bị coi là “dâm thư”.
Bản dịch Quốc ngữ của Tam quốc diễn nghĩa khởi đăng lần đầu tiên trên tờ Nông cổ mín đàm từ số thứ nhất, ra ngày 1/8/1901 cùng với lời giới thiệu ngắn gọn của dịch giả, nhưng không cho biết tên người dịch. Mãi đến số 8 (19/9/1901), mới thấy để tên người dịch là Canavaggio - chủ nhân của tờ Nông cổ mín đàm. Trên mặt báo ghi rành rành là vậy. Song bên cạnh những người tin chắc vào điều đó, cũng có những ý kiến nghi ngờ về dịch giả thực sự của Tam quốc.
AI LÀ NGƯỜI ĐẦU TIÊN DỊCH TAM QUỐC?
Việc trả lời câu hỏi “Ai là người dịch Tam quốc đầu tiên ở Việt Nam?” cũng chính là trả lời cho câu hỏi: “Ai là người mở đầu phong trào dịch thuật truyện Tàu ở Việt Nam?”. Như vậy, câu trả lời chính xác ở đây có ý nghĩa quan trọng, bởi nó xác định vị trí và ảnh hưởng của người tiên phong đối với nền văn học mới ở Nam Bộ nói riêng cũng như của cả nước nói chung.
Năm 1969, trên nguyệt san Tân Văn, Bình Nguyên Lộc đã đặt câu hỏi: “Không nhớ trong ba nhà nho tiền bối sau đây: Trần Phong Sắc, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, vị nào có sáng kiến trước tiên dịch truyện Tàu ra Quốc ngữ để bán cho các nhà xuất bản, chỉ biết rằng truyện Tàu tung ra thị trường thì chạy như tôm tươi”(2).
Năm 1992, trong công trình biên khảo Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ, Bằng Giang đã bác bỏ nghi ngờ của Bình Nguyên Lộc và khẳng định Canavaggio chính là dịch giả Tam quốc bằng cách đưa ra trường hợp Aubaret viết Vocabulaire Francais-Annamite et Annamite-Francais, Grammaire de la langue Annamite và dịch Gia Định thành thông chí ra tiếng Pháp; rồi trường hợp Landes cũng từng dịch Nhị độ mai sang tiếng Pháp. Từ đó, Bằng Giang đi đến kết luận, dù có ngậm ngùi: “Việc Canavaggio có dịch Tam quốc chí ra Quốc ngữ cũng chẳng phải là một chuyện phi thường khó tin. Hơn nữa, Canavaggio không phải là một người háo danh trong lãnh vực văn học, báo chí”(3). Đồng thời ông cũng bác bỏ luôn những nghi ngờ của người khác về khả năng Lương Khắc Ninh (chủ bút Nông cổ mín đàm) chính là dịch giả của Tam quốc: “Còn ông Ninh, nếu đã có nhúng tay vào việc dịch thuật truyện Tàu thì ít lâu sau khi việc dịch này nổi lên thành một phong trào, tại sao ông lại không thừa cơ hội đó mà làm ăn lớn như Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Nguyễn Chánh Sắt chẳng hạn? Thực tế, ông không có mặt trong thư tịch về mảng văn học dịch này”(4) .
Năm 2001, các tác giả Đỗ Quang Hưng, Nguyễn Thành, Dương Trung Quốc trong công trình Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 khi viết về tờ Nông cổ mín đàm cũng khẳng định: “Bộ Tam quốc chí của Trung Quốc lần đầu tiên được dịch ra tiếng Việt, do chính Canavaggio dịch, đăng tải liên tục trên báo này”(5).
Năm 2003, trong chuyên luận Các công trình văn học Quốc ngữ miền Nam, Huỳnh Ái Tông đã dựa theo ý kiến của Vương Hồng Sển đi đến kết luận Lương Khắc Ninh mới là người đầu tiên dịch Tam quốc: “Sơn Nam viết trong quyển Cá tính miền Nam, ông có cho biết truyện Tam quốc chí được dịch đăng trên báo Nông cổ mín đàm năm 1904, ký tên dịch giả Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sển, người dịch chính là Lương Khắc Ninh. Như vậy truyện Tam quốc chí do Lương Khắc Ninh dịch đăng lần đầu tiên trong Nông cổ mín đàm năm 1904”(6).
Năm 2007, các tác giả Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan trong công trình Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh lại cùng chung quan điểm với Bằng Giang và nhóm Đỗ Quang Hưng khi cho rằng: “Canavaggio là người Pháp sống tại Thủ Đức nhiều năm, giỏi Hán Nôm và Việt ngữ, là người dịch bộ Tam quốc chí diễn nghĩa từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ”(7) .
Cùng năm 2007, trong bài Một thế kỷ văn học Quốc ngữ, tác giả Nguyễn Văn Sâm cũng thiên về khuynh hướng xác định dịch giả Tam quốc là Canavaggio và bác bỏ trường hợp Lương Khắc Ninh. Ông viết: “Bản dịch Tam quốc chí ký tên Canavaggio là bản dịch Tam quốc chí ra Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta, trước bản dịch của Phan Kế Bính hơn một thập niên, đăng hơn năm năm từ số 1 đến số 210 là các số báo mà chúng tôi tham khảo được trước đây. Một số người ngờ rằng bản dịch nầy là của Lương Khắc Ninh, đều đó không có gì làm bằng. Xét về văn phong của Lương Khắc Ninh thì ta thấy không phải, ông nầy dùng nhiều biền ngẫu, chữ sử dụng cao kỳ mà dư thừa trong khi bản dịch Tam quốc chí đúng là hình thái văn xuôi, không có những tiểu đối, chữ dùng lại dễ hiểu bình dân, tỏ ra là tài lực của một người ít chịu ảnh hưởng của Hán học”(8). Đó là không kể một số công trình nghiêm túc của những nhà nghiên cứu Nam Bộ có tên tuổi khác có nói về Nông cổ mín đàm, nhưng không xác định tên người dịch Tam quốc như: Bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới của Bùi Đức Tịnh, Hồ sơ Lục châu học của Nguyễn Văn Trung, Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh (Tập II: Văn học – Báo chí – Giáo dục)…
Tóm lại, có hai ý kiến về dịch giả của Tam quốc diễn nghĩa: Ý kiến thứ nhất khẳng định người dịch là Canavaggio. Ý kiến thứ hai nghi ngờ do người khác dịch. Như vậy, có năm đối tượng nghi vấn được đưa ra là: Canavaggio, Lương Khắc Ninh, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương và Nguyễn Chánh Sắt. Mà xu thế cho thấy, hiện nay ý kiến thứ nhất đang được nhiều người tán đồng, thắng thế hơn so với ý kiến thứ hai. Trong đó, ý kiến thứ nhất dựa trên căn cứ tên Canavaggio được ghi rõ ràng dưới bản dịch Tam quốc trên các kỳ báo Nông cổ mín đàm, còn ý kiến nghi ngờ chủ yếu dựa trên suy đoán chủ quan không có bằng chứng.
Ở đây, tôi sẽ dựa trên ba tiêu chí để loại trừ năm đối tượng được dẫn ra từ hai ý kiến trên, từ đó đi đến xác định dịch giả thực sự của Tam quốc.
1. Tiêu chí thứ nhất, người dịch Tam quốc phải giỏi cả Hán văn lẫn Việt văn. Theo tiêu chí này thì trong năm đối tượng kể trên, người bị loại ra đầu tiên lại chính là Canavaggio. Vì sao? Bởi ông là người Pháp mà dù cho có “hai mươi năm chẵn ở miền Nam thổ” đi nữa, thì nhiều lắm ông cũng chỉ giỏi tiếng Việt chứ không có bằng chứng nào chắc chắn để khẳng định Canavaggio cũng là người giỏi Hán văn. Hơn nữa, tôi chỉ nghe nói ông lo buôn bán, chăn nuôi làm ăn, chứ không thấy ông có công trình nào như từ điển chữ Nôm của Taberd hay Schneider (mà nếu ai đã đọc các công trình này, cũng có thể biết chúng được hoàn chỉnh với sự hợp tác của nhiều người Việt, và cũng khó khẳng định hai ông này thực sự giỏi chữ Nôm hay tiếng Việt, trong khi đó việc dịch Tam quốc còn khó hơn nhiều lần so với việc soạn tự vị). Một bằng chứng khác nữa là sau khi tờ Nông cổ mín đàm ra đời được ít lâu, thì vì thua lỗ nên Canavaggio giao hết cho Lương Khắc Ninh, bởi vậy trên số 56 ra ngày 18 Septembre 1901, phần Lời rao in ở trang đầu mới viết: “Ai muốn mua nhựt trình, hay là in việc chi vào nhựt trình thì cứ do Bổn quán chủ bút là Lương Khắc Ninh mà thương nghị, chớ có gởi cho ông Canavaggio nữa”. Nghĩa là lúc này Canavaggio trên thực tế không còn làm việc và viết lách gì ở toà soạn Nông cổ mín đàm nữa, như vậy việc tên ông vẫn tiếp tục để dưới các kỳ Tam quốc chí tục dịch cũng chỉ là hữu danh vô thực.
2. Tiêu chí thứ hai, ngoài Tam quốc, người dịch còn dịch thêm các tiểu thuyết Trung Quốc khác. Theo tiêu chí này, thì lần thứ hai Canavaggio lại bị loại, và người tiếp theo phải rời khỏi danh sách này là Lương Khắc Ninh. Bởi, căn cứ vào bảng “Thư mục văn học Sài Gòn từ 1866 đến 1930 - Truyện Tàu”(9) thì không hề thấy tên Lương Khắc Ninh hay Lương Dũ Thúc nào cả. Điều này cộng với những suy luận khá hợp lý của Bằng Giang, Nguyễn Văn Sâm ở trên và của Bùi Đức Tịnh ở đây: “Ông Lương Khắc Ninh ít được biết trong văn giới có lẽ ông dùng báo chí như một phương tiện để hoạt động chính trị nghị trường, hơn là một phương tiện để hoạt động văn học”(10); rồi bản thân Lương Khắc Ninh bị đau mắt, bận đi gom tiền báo phải tạm ngưng mục Thương cổ luận thường kỳ và đăng lời thông báo ngay trên Nông cổ mín đàm: “Lời kiếu: Bổn quán xin kiếu lỗi cùng chư vị tri bằng quí hữu, cho nghỉ vài kỳ Thương cổ luận vì chủ bút mắt đau”(11), “chủ bút phải đi mỗi hạt đặng góp tiền nhựt báo”(12)… Trong khi đó Tam quốc tục dịch vẫn được đăng đều đặn; lại càng chứng tỏ Lương Khắc Ninh không phải là dịch giả thực sự của Tam quốc.
3. Tiêu chí thứ ba, phải có bằng chứng xác nhận người dịch rõ ràng. Đến lúc này thì trong danh sách năm người, Lương Khắc Ninh bị loại lần thứ hai và người tiếp theo là Trần Phong Sắc. Không có bằng chứng nào chứng tỏ hai người này là dịch giả của Tam quốc, dù rằng trong đó Trần Phong Sắc là dịch giả truyện Tàu có số lượng đầu sách lớn nhất đương thời, mà sau này cũng có nhiều người khác dịch lại Tam quốc, nhưng trong mục lục trước tác của Trần Phong Sắc, lại không thấy tên Tam quốc.
Bây giờ chỉ còn lại hai người mà tôi thấy đáp ứng đầy đủ cả ba tiêu chí trên là Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương.
Trước tiên nói về Nguyễn Chánh Sắt. Dựa vào những lời “Đáp từ ông Nguyễn Viên Kiều” của chính Nguyễn Chánh Sắt đăng trên Nông cổ mín đàm, số 169 (8 Decembre 1904): “Tôi đây vẫn là người An Giang quán Tân Châu, từ ra tùng sự tân trào đến nay cũng gần đặng mười năm rồi, nay tôi thấy có ông Lương đại nhơn là cựu hội đồng quản hạt lập nhựt trình Nông Cổ nầy ra, trước là khuyến dụ nhơn dân an phận thủ thường, sĩ nông công cổ, sau là mở quảng văn thí cuộc cho Lục châu văn hữu thông đồng với nhau cho vui, kẻo đạo thánh càng ngày càng lu, vả lại tôi có nghe câu: văn nhơn chi thiện tắc tựu nhi hòa chi, hựu tùng nhi hỉ chi, bởi vậy cho nên tôi tuy mắc việc quan mặc dầu, song chẳng nài khó nhọc mà xin vào tùng sự với người, ông lại đam lời giễu cợt tôi rằng ở trong tay áo ông chủ bút, thử hà ngôn gia???”. Đối chiếu thêm với tiểu sử của Nguyễn Chánh Sắt, đoạn: “Vào những năm cuối thế kỷ XIX hoặc đầu thế kỷ XX, ông giúp việc cho Canavaggio và được giao phó cai quản ruộng muối của ông này ở Bạc Liêu (không biết vào lúc này, Canavaggio đã sáng lập Nông cổ mín đàm hay chưa). Sau bốn năm ở Bạc Liêu, ông về Sài Gòn và bắt đầu dịch truyện Trung Hoa. Dịch phẩm đầu tiên của ông là truyện Tây Hớn do nhà xuất bản J.Viết ấn hành, không biết vào năm nào. Sách bán rất chạy nên ông tiếp tục dịch truyện Đông Hớn và tự mình xuất bản” trong Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới(13). Từ đó cho thấy Nguyễn Chánh Sắt rất thân cận với Canavaggio, Lương Khắc Ninh và thực sự đã làm trợ bút cho tờ Nông cổ mín đàm ngay từ những ngày đầu, nhưng dưới hình thức ẩn danh, cái tên Nguyễn Chánh Sắt chỉ chính thức xuất hiện trên Nông cổ mín đàm từ số 36 (1 Mai 1902) dưới bài lục bát trường thiên Thể Nông cổ mín đàm ca.
Còn đương nhiên không ai phủ nhận khả năng tiếng Việt cũng như vốn Nho học của Nguyễn Chánh Sắt (tiêu chí thứ nhất) và ông lại cùng với Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, được xem là những dịch giả truyện Tàu trứ danh nhất đương thời (tiêu chí thứ hai). Song điều quan trọng nhất ở đây vẫn là tiêu chí thứ ba: phải có bằng chứng xác nhận tên người dịch rõ ràng. Điều này bản thân Nguyễn Chánh Sắt đương thời không nói hoặc viết ra, nhưng may mắn thay, tôi lại tìm thấy bằng chứng chứng minh ông là dịch giả đầu tiên thực sự của Tam quốc ngay trên Nông cổ mín đàm, qua những bài thơ khen tặng:
Lá mượn màu sương nhuộm đặng xanh,
Rất khen Chánh Sắt gắng công thành.
Liêu Trai tầm lý lời nên chắc,
Tam quốc diễn nôm nghĩa thiệt rành.
Nhuần nhã non văn đường hắc bạch,
Rỡ ràng biển học vẻ đơn thanh.
Hậu sanh ít kẻ so bì kịp,
Đèn sách như người gẫm toại danh.
Trên đây là bài Tặng Nguyễn Chánh Sắt của “Thương chánh thơ ký Nguyễn Sơ Khai” đăng trong mục Thi phổ của tờ Nông cổ mín đàm số 165 (10 Novembre 1904). Mà không những chỉ có một bài, một người khen rõ như vậy, mà còn thêm hai bài khác khẳng định rõ ràng hơn nữa. Đó là bài Tặng ông Nguyễn Chánh Sắt, dịch truyện Tam quốc của Lê Vịnh Thi ở Bến Tre, đăng trên Nông cổ mín đàm số 169 (8 Decembre 1904), nằm trong chùm năm bài thơ “Kỉnh tặng chủ bút tịnh chư văn hữu ngũ thủ liên huờn”:
Văn chương Chánh Sắt ít ai tày,
Tứ đại kỳ thơ dịch rất hay.
Huyền Đức, Khổng Minh đà rõ mắt,
Châu Du, Tào Tháo cũng liền tay.
Trăm hồi tỏ rõ nào sai chạy,
Một mảy phân minh chẳng đổi thay.
Quảng kiến đa văn đà phải mặt,
Sôi kinh nấu sử đáng công dày.
Và thứ ba là bài Tặng Nguyễn Chánh Sắt dịch Tam quốc và Liêu trai của tác giả Trần Quang Văn ở Gò Công, đăng trên Nông cổ mín đàm số 173 (5 Janvier 1905):
Tiếng vang Chánh Sắt khắp xa bay,
Tam quốc, Liêu Trai, dịch có tài.
Tích quỉ kể qua nghe rất lạ,
Mưu thần thuật lại nghĩ càng hay.
Kẻ quen truyện sách coi mê mặt,
Người ít văn chương ngó đẹp mày.
Giúp trẻ thơ đồng thông lý sự,
Công linh như đấy đố ai tày.
Trong khi đó, Canavaggio và Lương Khắc Ninh cũng được nhiều người làm thơ đề tặng, nhưng tôi không thấy bài nào nói về việc hai ông này có dịch Tam quốc hay bộ truyện Tàu nào khác (nhất là Canavaggio), đại khái những lời khen ngợi ấy như sau:
Ông cây non lịch thiếu gì voi,
Nông nghiệp bày ra rất phải mòi,
Lương hoá kỳ thơ danh tợ sấm,
Cổ trương diệu tể tiếng hơn còi,
Khắc minh đạo đức nơi nơi chuộng,
Min thít môn nhân xứ xứ roi,
Ninh luận ngũ xa cầm bạc lượng,
Đàm thông bá nghệ đáng vàng thoi.
Đó là bài thơ Tặng ông Lương Khắc Ninh của Lê Nghĩa Phương đăng trên Nông cổ mín đàm số 151 (4 Aout 1904). Còn bài dưới đây là của giáo thọ Trước ở Bà Rịa tặng Canavaggio nhân dịp ông này đắc cử vào Hội đồng quản hạt (Nông cổ mín đàm số 139, 5 Mai 1904, tr.4):
Ít lời ngàn dặm kính mầng ông,
Quản hạt ngày nay dự hội đồng.
Dân vật Nam Kỳ dầu đặng toại,
Uốn ba tấc lưỡi sẽ nhờ công.
Sẽ nhờ công khó bực thông minh,
Soi khắp trời Nam rõ sự tình.
Thấy chỗ bất bình người bổn quấc,
Nỡ khoanh tay ngó, nỡ làm thinh.
Như vậy, ba bài thơ đề tặng Nguyễn Chánh Sắt trên là những bằng chứng xác định rõ rằng: Nguyễn Chánh Sắt chính là người đầu tiên thực sự dịch Tam quốc, đồng thời ông cũng là dịch giả của nhiều bộ truyện Tàu khác như: Liêu trai chí dị, Long đồ công án, Kim cổ kỳ quan… đăng rải rác trên Nông cổ mín đàm. Bởi trước bản Tam quốc chí tục dịch chưa hề có bản dịch Tam quốc nào khác được in ấn lưu hành, cho nên cũng không thể nói bản dịch Tam quốc của Nguyễn Chánh Sắt mà người ta nói ở trên là bản dịch khác chứ không phải Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm. Thậm chí có thể nhiều bài ký tên Canavaggio ở những số đầu, cũng chính do Nguyễn Chánh Sắt chấp bút. Bên cạnh việc đăng dài kỳ bản dịch Tam quốc với lời cảnh báo “Cấm ai không đặng in Tam quốc lại như trước nầy vào các thứ sách, hay là làm riêng một cuốn cũng không đặng”, Nông cổ mín đàm còn giới thiệu các dịch phẩm khác như: Truyện Bắc Tống (Huỳnh Công Giác dịch, 1906), Phản Đường, Tàn Đường, Thuỷ Hử (Nguyễn An Khương dịch, 1906)…
Chỉ có điều khiến người ta khó hiểu ở đây là tại sao Nguyễn Chánh Sắt lại giấu tên mình, mà thay vào đó là tên của Canavaggio? Nghi vấn này hiện tôi cũng không có câu trả lời chính xác, nhưng tôi nghĩ trường hợp “viết thay” hay “dịch thay” cũng không hiếm ở ta từ xưa đến nay, mà bây giờ tình trạng này lại càng phổ biến, hẳn những “người trong nghề” dịch sách, làm báo có thể hiểu và thông cảm được. Hơn nữa, theo luật báo chí đương thời, chỉ có người mang quốc tịch Pháp mới được làm chủ biên, Nông Cổ Mín Đàm ra đời có thể do chủ trương của Lương Khắc Ninh, hay của Canavaggio, hoặc cả hai. Nhưng rõ ràng vị trí của Canavaggio ở đây chỉ mang tính hợp pháp cho tờ báo, còn quyền điều hành thực sự nằm trong tay của Lương Khắc Ninh và những người “phụ diễn” cho ông. Đúng như lời Milton E. Osborne: “Các bài viết có bản chất chính trị nhiều hơn xuất hiện trong tờ báo quốc ngữ không chính thức thực sự quan trọng đầu tiên, Nông Cổ Mín Đàm (The Tribune of Old Agricultural People), bắt đầu sự ấn hành vào năm 1901. Giống như tờ Nam Kỳ, có một bên quan hệ là người Pháp trong sự ấn hành. Một người Pháp tên Canavaggio là chủ báo, nhưng sự điều hành tờ báo nằm trong tay người Việt Nam”(14).
Hơn ai hết, chính những người “trong giới” và cùng thời với Nguyễn Chánh Sắt hiểu rõ nhất ông mới đích thực là dịch giả của Tam quốc chứ không phải Canavaggio hay Lương Khắc Ninh hoặc ai khác
Trường hợp Nguyễn An Khương lại đơn giản hơn Nguyễn Chánh Sắt nhiều. Bởi ông cũng đủ tiêu hai tiêu chỉ đầu và đến tiêu chí thứ ba thì thậm chí còn “chính danh” hơn Nguyễn Chánh Sắt. Người ta thấy Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm đăng đến số 258 (20 Septembre 1906) thì tên Canavaggio được thay bằng tên Nguyễn An Khương. Lúc này Lương Khắc Ninh nghỉ, Trần Chánh Chiếu lên thay làm chủ bút, không hiểu lý do nào khiến Nguyễn Chánh Sắt ngưng dịch Tam quốc và chuyển nó sang tay Nguyễn An Khương dịch tiếp từ hồi tám mươi sáu trở đi. Năm 1908, trên tờ Lục tỉnh tân văn số 9 (9 Janvier), có bài đăng bài “Cung tặng chủ sự Nguyễn An Khương tiên sanh” của tác giả Ái Liên ở Vĩnh Long cũng nói đến việc Nguyễn An Khương từng dịch Tam quốc:
Nổi tiếng văn chương bốn biển tày,
Tuồng xưa diễn lại gẫm càng hay.
Gian hùng lắm kẻ đau gan ruột,
Ngay thẳng nhiều anh nở mặt mày.
Dẫn tích Tứ kỳ noi dấu trước,
Đem gương Tam quốc dạy đời nay.
Hữu công danh giáo cùng trăm họ,
Long, hổ rồi đây cũng gặp ngày.
Từ những bằng chứng và luận cứ trên, tôi đi đến kết luận: Nguyễn Chánh Sắt chính là người đầu tiên dịch Tam quốc diễn nghĩa, và bản dịch hoàn chỉnh dưới nhan đề Tam quốc chí tục dịch đăng dài kỳ trên Nông cổ mín đàm là công lao của Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương.
______________
(1) Tam quốc chí tục dịch, báo Nông cổ mín đàm, số 1 (1 Aout 1901).
(2) Bình Nguyên Lộc: Thời vàng son của nghề xuất bản tại Sài Gòn, nguyệt san Tân Văn số 16-17, tháng 8-9, 1969, tr.13-14.
(3) (4) Bằng Giang: Văn học Quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, TP.HCM, 1992, tr.238.
(5) Đỗ Quang Hưng - Nguyễn Thành - Dương Trung Quốc: Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945, Nxb Đại học Quốc gia, H, 2001, tr.31.
(6) Huỳnh Ái Tông: Các công trình văn học Quốc ngữ miền Nam, Tiết 4: Truyện Tàu, http://www.vantuyen.net/index.php? view= story&subjectid=5921&chapter=4 (7/7/2008). Ở đây Huỳnh Ái Tông còn nhầm lẫn về thòi gian bản dịch Tam quốc khởi đăng, đó là 1901, chứ không phải 1904.
(7) Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan: Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM – Văn hoá Sài Gòn, 2007, tr.43.
(8) Nguyễn Văn Sâm: Một thế kỷ văn học Quốc ngữ, http://www .vantuyen.net/index.php?View=story&subjectid=17831 (6/6/2008). Ở đây Nguyễn Văn Sâm (hoặc lỗi của người đánh máy) có nhầm lẫn về thời gian đăng Tam quốc chí tục dịch. Bởi như tài liệu tôi có được từ số đầu đến số 300, thì Tam quốc chí tục dịch mới hết hồi 102 và bắt đầu bước sang hồi 103. Có thể Tam quốc chí tục dịch kết thúc ở số 310, chứ không phải ở số 210. Và bản dịch Tam quốc của Phan Kế Bính ở miền Bắc được xuất bản năm 1907, chỉ cách bản Tam quốc chí tục dịch 6 năm, chứ không đến “hơn một thập niên” như Nguyễn Văn Sâm nói.
(9) Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng chủ biên: Địa chí Văn hoá
Thành phố Hồ Chí Minh (Tập II: Văn học – Báo chí – Giáo
dục), Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 348-352.
(10) Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1992, tr.49.
(11) Nông cổ mín đàm, số 159 (29 Septembre 1904).
(12) Nông cổ mín đàm, số 169 (8 Decembre 1904).
(13) Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí… Sđd, tr.135.
(14) The French Presence in Cochinchina and Cambodia, Rule and Response (1859-1905), Ithaca and London: Cornell University Press, 1969, Chương 8: Education and Quốc Ngữ, A Qualified Triumph, các trang 156-171. Ngô Bắc dịch: http://www.gio-o.com/NgoBacEOsborne2.htm (15/8/2008)

LƯU HỒNG SƠN

Các Bài viết khác